Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Thuyết Học Kinh Cho Bà Lão Bà La Môn Ở Vườn Hoàng Trúc

16 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13724)
Phật Thuyết Học Kinh Cho Bà Lão Bà La Môn Ở Vườn Hoàng Trúc


PHẬT THUYẾT HỌC KINH CHO LÃO BÀ LA MÔN Ở VƯỜN HOÀNG TRÚC


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0075 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Mất tên người dịch, nay phụ vào Tống Lục.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---


 

  Nghe như vầy:

 Một thời Bạt Già Bà ở tại vườn Hoàng Trúc, Tỳ Lan Nhã. Bấy giờ Bà la môn Tỳ Lan Nhã tuổi cao tác lớn, là bậc kỳ túc, tuổi thọ gần mãn, đã một trăm hai mươi tuổi, tay chống gậy, lúc xế trưa thong thả tản bộ đi đến chỗ đức Thế Tôn, đến xong cùng đức Thế Tôn chào hỏi, thăm viếng, sau khi chào hỏi thăm viếng đức Thế Tôn rồi, chống gậy đứng trước đức Thế Tôn, rồi Lan Nhã đứng qua một bên bạch đức Thế Tôn rằng:

 –Này Cù Ðàm, tôi nghe Sa môn Cù Ðàm tuổi còn quá trẻ, vừa mới xuất gia học đạo, thế mà nếu có Ðại Sa môn, Bà la môn nào đích thân đến vẫn không tùy thời cung kính, cũng không đứng dậy, không mời các vị ấy ngồi. Này Cù Ðàm, việc ấy tôi không thể chấp nhận được.

 Ðức Thế Tôn đáp:

 –Này Bà la môn, ta chưa từng thấy chư thiênthế gian, Ma, Phạm, Sa môn, Bà la môn, chúng thiênloài người đi đến mà khiến cho Như Lai cung kính, từ tòa đứng dậy mời các vị ấy ngồi. Này Bà la môn, đó là nếu đức Như Lai cung kính, từ tòa đứng dậy thì đầu của người ấy sẽ bể thành bảy mảnh.

 Bà la môn nói rằng:

 –Này Sa môn Cù Ðàm, đó chỉ là sự giải đãi, ngạo mạn.

 –Này Bà la môn, có trường hợp khiến cho ta có sự kinh thường nhưng không phải như lời ông nói. Này Bà la môn, nếu có sắc vị, thinh vị, hương vị, xúc vị, vật trơn mịn, thì những thứ ấy đã bị Như Lai dứt sạch, đã biết, đoạn trừ tận gốc rễ, không còn sanh ra sự khủng bố ở tương lai nữa. Này Bà la môn, đó là điều khiến ta có sự kinh thường nhưng không phải như lời ông nói.

 Bà la môn lại nói:

 –Sa môn Cù Ðàm không có sợ hãi?

 Ðức Thế Tôn đáp:

 –Này Bà la môn, lại có điều kiện khiến cho ta không có sợ hãi, nhưng không phải như lời ông nói. Ðó là nếu có sự sợ hãi các sắc, sợ hãi thinh, sợ hãi hương, sợ hãi vị, sợ hãi sự xúc trơn mịn, thì Như Lai đã đoạn tận, đã biết đoạn trừ tận gốc rễ, không còn sanh ra sự sợ hãi ở tương lai nữa. Này Bà la môn, có điều kiện này khiến cho ta không có sợ hãi, nhưng không phải như lời ông nói.

 Bà la môn lại nói:

 –Sa môn Cù Ðàm không có đầu thai nữa chăng?

 Ðức Thế Tôn đáp:

 –Này Bà la môn, có trường hợp khiến cho ta không đầu thai, nhưng không phải như lời ông nói. Này Bà la môn, nếu có Sa môn, Bà la môn phải đầu thai trở lại thì ta đã đoạn tận, đã biết đoạn trừ tận gốc rễ, không còn sanh ra sự sợ hãi ở tương lai, thì ta nói không đầu thai. Này Bà la môn, đức Như Lai, bậc Vô sở trước, Ðẳng chánh giác không còn đầu thai trở lại nữa, Ngài đã đoạn tận, đã biết đoạn trừ tận gốc rễ không còn sanh ra sự sợ hãi ở tương lai, ta không đầu thai nữa. Này Bà la môn, đó là có trường hợp khiến cho ta không đầu thai nữa, chứ nhưng không phải như lời ông nói.

 Lại nữa, này Bà la môn, ta ở trong đời này có sự ngu si tham đắm sự ngu si bị ngu si che lấp trói buộc, ta là người đầu tiên phân biệt pháp, đối với chúng sanh, ta là bậc nhất. Này Bà la môn, giống như gà mái sanh trứng, hoặc mười hoặc hai mươi trứng, nó tùy thời, đúng thời ấp trên trứng. Nó đúng thời, tùy thời ấp trứng; nó đúng thời, tùy thời chuyển bên này bên kia. Nếu con gà mái ấy có đi đâu, các gà con ở trong trứng dùng mỏ, dùng chân mổ và chọi, phá vỡ trứng chui ra an ổn, nó là những con gà con bậc nhất. Cũng vậy, này Bà la môn, ta bị ngu si trói chặt, bị ngu che lấp, ta là người đầu tiên phân biệt pháp, với các chúng sanh ấy, ta là bậc nhất.

 Này Bà la môn, ta ôm cỏ khô đi đến dưới gốc cây đạo tràng, đến dưới gốc cây đạo tràng rồi, rải cỏ ngồi xuống gốc cây, trải Ni sư đànngồi kiết già, quyết không đứng dậy, cho đến khi dứt sạch hữu lậu. Này Bà la môn, ta không đứng dậy, cho đến khi chấm dứt hữu lậu. Này Bà la môn, ta đã giải thoát dâm dục, giải thoát các pháp ác bất thiện, tự giác, tự hành, được ái hỷ, đạt được Sơ thiền, thành tựu an trụ. Này Bà la môn, bấy giờ ta đạt được pháp tư duy thứ nhất, thấy pháp, an lạc trụ, có lạc hạnh, không mất sự an trụ yên ổn để tiến tới Niết Bàn.

 Này Bà la môn, sau khi ta chấm dứt tự giác hành, bên trong có tin vui, ý được chuyên nhất, không giác không quán, có sự hoan hỷ do định sanh, đạt đến Nhị thiền, chánh thọ an trụ. Này Bà la môn, bấy giờ ta được tâm tư duy thứ hai, thấy pháp, an lạc trụ, lạc hạnh, không mất sự an ổn để tiến tới Niết Bàn.

 Này Bà la môn, ta không đắm trước ái hỷ, thủ hộ ý, niệm đẳng tri, thân được an lạc, đó gọi là điều Thánh quán, điều Thánh hộ niệm, trú trong an lạc, đạt đến Tam thiền, thành tựu an trụ chánh thọ. Này Bà la môn, bấy giờ ta được tư duy thứ ba, thấy pháp, an lạc trụ, lạc hạnh, không mất an lạc, tiến tới Niết Bàn.

 Này Bà la môn, ta diệt lạc, diệt khổ, bỏ sự hoan hỷ, diệt ái ở trước, không khổ không lạc, giữ ý thanh tịnh, đạt được Tứ thiền, an trụ chánh thọ. Này Bà la môn, lúc đó ta đạt được sự tư duy thứ tư, thấy pháp, an lạc trụ, lạc hạnh, không mất sự an lạc, tiến tới Niết Bàn.

 Này Bà la môn, nhờ Tam muội này, ý ta thanh tịnh, trong sạch, không có kết, trừ các kết, nhu nhuyến, thường trụ, không biến dị, nhờ Túc mạng trí đã chứng đắc để tự chế ngự ý. Này Bà la môn, ta nhớ vô lượng đời trước đã qua, có hành động và có lời nói thế nào. Nghĩa lại ta nhớ lại một lần sanh, hai lần sanh, trăm lần sanh, ngàn lần sanh, hoặc một kiếp, nửa kiếp, vô lượng kiếp, các chúng kia tên này, họ này, tánh tình như vậy, ăn uống như vậy, khổ vui như vậy, thọ mạng dài, ngắn, chết ở đây sanh ở kia, chết ở kia sanh ở đây. Tại đó ta tên này, họ này, ăn món ăn như vậy, thọ mạng dài ngắn như vậy. Này Bà la môn, ngay lúc đó vào khoảng nửa đêm, ta chứng Thánh trí minh đạt thứ nhất. Nhờ không phóng dật, nên được đắc định, nghĩa là vô trí diệt và trí phát sanh. Tối tăm tiêu trừ, ánh sáng xuất hiện, vô minh chấm dứt và minh phát sanh. Ðó là ta chứng đắc trí Túc mạng minh.

 Lại nữa, này Bà la môn, nhờ vào Tam muội, ý thanh tịnh, trong trắng, không kết, trừ các kết, nhu nhuyến, thường trụ, không biến dị, chứng đắc Thiên nhãn trí, tự chế ngự ý. Này Bà la môn, ta nhờ vào Thiên nhãn thanh tịnh, thấy xa hơn người thường. Ta thấy chúng sanh lúc sanh, lúc tử, tốt đẹp xấu xí, hoặc sanh đến chỗ thiện hay chỗ ác, tùy theo nghiệp mà chúng sanh đã tạo, ta biết đúng như sự thật rằng: chúng sanh này với thân làm ác, miệng làm ác và ý nghĩ ác, phỉ báng bậc Thánh, tà kiến, do nhân đó duyên đó, kẻ ấy khi thân hoại mạng chung phải đến chỗ ác, sanh trong địa ngục. Nếu chúng sanh nào thân làm việc thiện, miệng nói điều thiện và ý nghĩ điều thiện, có tín, có thiện hạnh, chánh kiến, cùng tương ưng với chánh kiến, do nhân đó duyên đó, khi thân hoại mạng chung được đến chỗ thiện, sanh lên cõi trời. Này Bà la môn, lúc đó vào khoảng nửa đêm, ta chứng trí minh đạt thứ hai này. Nhờ không phóng dật, nay được định hạnh, nghĩa là vô trí diệt và trí phát sanh, mê ám tiêu tan và ánh sáng thành tựu, vô minh chấm dứt và minh phát sanh. Ðó là ta chứng đắc Trí Thiên nhãn minh.

 Này Bà la môn, ta nhờ Tam muội này, ý được thanh tịnh trong sáng, không trói buộc, trừ các trói buộc, thực hành nhu nhuyến, thường trụ, không biến dị, chứng được hữu lậu tận trí, tự chế ngự ý. Này Bà la môn, ta biết như thật rằng: “Ðây là khổ”, biết như thật rằng: “Ðây là khổ tập”, “Khổ tận”, “Khổ tận trụ xứ”. Biết như thật rằng: “Ðây là hữu lậu”, biết như thật rằng: “Ðây là hữu lậu tập”, “Hữu lậu tận”, “Hữu lậu tận xứ”. Ta biết như thế, thấy như thế, tâm giải thoát khỏi dục lậu, tâm giải thoát khỏi hữu lậu và si lậu. Sau khi giải thoát thì biết mình đã giải thoát, biết như thật rằng: “Sanh đã chấm dứt, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, biết rõ danh sắc đời trước”. Này Bà la môn, bấy giờ vào đêm đó ta chứng được ba Minh. Nhờ không phóng dật nên nay được định hạnh, vô trí diệt và trí phát sanh, vô minh dứt và minh xuất hiện. Nghĩa là ta chứng đắc được Minh đạt hữu lậu tận trí.

 Lại nữa, này Bà la môn, đó là nếu có ai với sự thuyết giảngthuyết giảng không có ngu si, đối với chúng sanh sanh ra ở thế gian, ở giữa tất cả chúng sanh vị ấy là tối thắng, thoát ly khỏi khổ lạc. Này Bà la môn, nên biết rằng, vị thuyết giảng chơn chánh ấy là ta. Vì sao này Bà la môn, ta là người không ngu si, xuất hiệnthế gian, đối với chúng sanh trên thế gian này ta là tối thắng, không bị khổ lạc chi phối.

 Bấy giờ Bà la môn xứ Tỳ Lan Nhã bỏ gậy xuống đất, cúi đầu lạy dưới chân đức Thế Tôn, ở trước đức Thế Tôn, tán thán đức Thế Tôn:

 –Thế Tôn là tối thắng, Thế Tôn là tối diệu, Thế Tôn là tối vi diệu, Thế Tôn là không ai bằng, không ai sánh bằng Thế Tôn. Thế Tôn không có tai hoạn, Thế Tôn không sân hận với người, trời. Bạch Thế Tôn, nay con tự quy y PhápTỳ kheo tăng. Mong đức Thế Tôn ngày hôm nay nhận con làm Ưu bà tắc, bắt đầu từ hôm nay cho đến trọn đời con xin xa lìa sát sanh... ngày hôm này con xin tự quy y.

 Ðức Phật thuyết như vậy, Bà la môn xứ Tỳ Lan Nhã sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ vui mừng

PHẬT THUYẾT KINH HỌC CHO LÃO BÀ LA MÔN Ở VƯỜN HOÀNG TRÚC

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12546)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10460)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12405)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11708)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28883)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12098)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13071)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11503)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12434)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17517)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53183)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35567)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21530)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10729)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19343)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12476)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26148)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13392)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14446)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16127)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13772)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16910)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17677)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13214)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12576)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11669)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11677)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14574)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20547)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19117)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19666)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18779)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12250)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12389)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13946)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15135)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15108)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14040)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15578)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11474)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17273)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15049)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20306)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14669)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13925)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11786)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15114)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13047)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22954)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14608)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11724)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13217)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16958)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18406)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11991)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11562)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15919)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12949)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18983)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18522)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant