Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn Bổn Nguyện

26 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13486)
Kinh Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn Bổn Nguyện


KINH BỒ TÁT DI LẶC HỎI ÐỨC PHẬT VỀ BỔN NGUYỆN


Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0349

Nguyên tác Hán ngữ  [1]

Hán dịch: Tây Tấn, nước Nguyệt Chi Tam tạng Trúc Pháp Hộ

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

Chứng nghĩa: Tỳ kheo Thích Ðổng Minh.

---o0o--- 

Nghe như vầy:

Một thời Phật du hóa tại vườn Nai, trong rừng Khủng Cụ, núi Diệu Hoa, nước Phi Kỳ, cùng đông đủ chúng đại Tỳ Kheo là năm trăm vị, tất cả hiền thánh thần thông đã đạt, đều là những Tỳ kheo được mọi người tôn kính. Tên của những vị ấy là : hiền giả Liễu Bổn Tế, hiền giả Mã Sư, hiền giả Hòa Ba, hiền giả Ðại Xứng, hiền giả Hiền Thiện, hiền giả Ly Cấu, hiền giả Cụ Túc, hiền giả Ngưu Từ, hiền giả Lộc Kiết Tường, hiền Ưu Vi Ca Diếp, hiền giả Na Dực Ca Diếp, hiền giả Ca Dực Ca Diếp, hiền giả Ðại Ca Diếp, hiền giả Sở Thuyết, hiền giả Sở Trước, hiền giả Diện Vương, hiền giả Nan Ðề, hiền giả Hòa Nan, hiền giả La Vân, hiền giả A-Nan, ... Như vậy cả thảy năm trăm vị Tỳ kheo. Lại có Bồ tát như : Di Lặc ... năm trăm người, tên các vị ấy là : Bồ tát Tăng Ý, Bồ tát Kiên Ý, Bồ tát Biện Tích, Bồ tát Quan Thế Âm, Bồ tát Ðại Thế Chí, Bồ tát Anh Kiết Tường, Bồ tát Nhuyến Kiết Tường, Bồ tát Thần Thông Hoa, Bồ tát Không Vô, Bồ tát Hỷ Tín Tịnh, Bồ tát Căn Ðộ, Bồ tát Xứng Ðộ, Bồ tát Nhu Nhuyến Âm Hưởng, Bồ tát Tịnh Ðộ, Bồ tát Sơn Tích, Bồ tát Cụ Túc, Bồ tát Văn Thù Sư Lợi Căn Kiết Tường. Như vậy cả thảy năn trăm vị Bồ tát.

Bấy giờ Bồ tát Di Lặc từ tòa đứng dậy, sửa y phục ngay thẳng, qùy dài chấp tay bạch đức Phật :

- Con có điều muốn hỏi, cúi mong đức Thiên Trung Thiên cho phép con mới dám hỏi.

Ðức Phật bảo Bồ tát Di Lặc :

- Ta hứa khả. Như Lai sẽ theo ý muốn của ngươi mà giải thích để tâm ngươi được hoan hỷ.

Bấy giờ Bồ tát Di Lặc được Phật cho phép nên vui mừng hoan hỷ bạch đức Thế tôn :

- Bồ tát có mấy pháp hạnh để vứt bỏ các ác đạo, không tùy thuận trong ác tri thức ?

Ðức Phật dạy Bồ tát Di Lặc :

- Lành thay ! Lành thay ! Này Di Lặc ! Bồ tát có nhiều lòng thương xót, nhiều sự an ổn, thương yêu chư thiên và lòai người nên mới phát tâm hỏi đức Như Lai những nghĩa lý như vậy. Hãy suy nghĩ kỹ.

Bồ tát Di Lặc liền thưa :

- Thưa vâng bạch Thế tôn ! Con xin thọ giáo lắng nghe.

Ðức Phật dạy :

- Này Di Lặc ! Bồ tát có một pháp hạnh để bỏ các ác đạo, không rơi vào trong ác tri thức. Môt pháp đó là gì ? Ðó là ý đạo tịch tịnh bình đẳng. Ðó là một pháp.

Ðức Phật dạy :

- Này Di Lặc, Bồ tát lại có hai pháp hạnh để bỏ các ác đạo, không rơi vào trong ác tri thức. Hai pháp đó là gì ? Một là trụ nơi định vô sở khởi, hai là phương tiên phân biệt sở kiến. Ðó là hai pháp.

Ðức Phật dạy ;

- Này Di Lặc, Bồ tát lại có ba pháp hạnh để bỏ các ác đạo, không rơi vào trong ác tri thức. Những gì là ba ? Một là được pháp đại thừa, hai là đối với không, vô sở tập, ba là biết vô sở niệm. Ðó gọi là ba pháp.

Ðức Phật dạy :

- Này Di Lặc ! Bố tát lại có bốn pháp hạnh để bỏ các ác đạo, không rơi vào trong ác tri thức. Những gì là bốn ? Một là đứng trên giới, hai là đối với tất cả pháp không nghi ngờ, ba là thích ở chỗ an tịnh, bốn là quán sát bình đẳng. Ðó là bốn pháp.

Ðức Phật bảo :

- Này Di Lặc ! Bồ tát lại có năm pháp hạnh để bỏ các ác đạo, không rơi vào trong ác tri thức. Những gì là năm ?

1/ Thường lập đức nghĩa.

2/ Không mong cầu những điều hay dở của người khác.

3/ Thân hành tự tĩnh.

4/ Thường ưa chánh pháp.

5/ Không tự nghĩ thân mình, thường cứu người khác.

Ðó là năm pháp.

Ðức Phật bảo :

- Này Di Lặc ! Bồ tát lại có sáu pháp hạnh để bỏ các ác đạo, không rơi vào trong ác tri thức. Nhựng gì là sáu ?

1/ Không san tham

2/ Trừ bỏ tâm tệ ác

3/ Không ngu si

4/ Không nói lời thô tục

5/ Giữ ý như hư không

6/ Lấy không làm nhà.

Ðó là sáu pháp.

Ðức Phật bảo :

- Này Di Lặc ! Bồ tát lại có bảy pháp hạnh để bỏ cac ác đạo, không rơi vào trong ác tri thức. Những gì là bảy ?

1/ Có ý quyền xảo 

2/ Có thể phân biệt được các pháp bảo.

3/ Thường tinh tấn.

4/ Thường hoan hỷ

5/ Ðược tín nhãn

6/ Khéo hiểu định ý.

7/ Tóm thâu hết trí tuệ sáng.

Ðó là bảy pháp.

Ðức Phật bảo :

- Này Di Lặc ! Bồ tát lại có tám pháp hạnh để bỏ các ác đạo, không rơi vào trong ác tri thức. Những gì là tám ?

1/ Ðược trực kiến

2/ Trực niệm.

3/ Trực ngữ

4/ Trực họat

5/ Trực nghiệp

6/ Trực phương tiện

7/ Trực ý

8/ Trực định.

Ðó là tám pháp.

Ðức Phật bảo :

- Này Di Lặc ! Bồ tát lại có chín pháp hạnh để bỏ các ác đạo, không rơi vào ác tri thức. Những gì là chín ?

1/ Bồ tát đã giải thóat dục, xa lìa các ác, với pháp bất thiện không có tưởng niệm nên được tịch tịnh, hoan hỷ, hành nhất tâm bậc nhất.

2/ Ðã trừ tưởng niệm, ý bên trong tịch tịnh, đã được nhất tâm, không tưởng, không hành, liền được định ý, tâm được hoan duyệt, hành nhất tâm thứ hai.

3/ Lìa quán hoan hỷ, thường được tịch tịnh, thân được yên ổn như các thánh hiền. Dù nói, dù quán, tâm ý không động, hành nhất tâm thứ ba.

4/ Ðã đọan trừ khổ, vui, đã đình chỉ sự vui mừng hay buồn rầu, đã quán thấy không khổ không vui, tâm ý thanh tịnh, được nhất tâm thứ tư.

5/ Vượt qua sắc tưởng.

6/ Không còn nói về tưởng.

7/ Không còn nghĩ về tưởng nữa, đều nhập vào trí huệ về hư không nhiều vô số.

8/ Ðã vượt qua vô số hư không huệ, nhập vào hạnh phúc vô biên xứ.

9/ Ðã vượy qua các huệ thức tri, không còn tưởng hữu vô, vượt qua các huệ vô thức, liền nhập vào hạnh hữu tưởng vô tưởng, không thấy tưởng, được Tam muội tịch tịnh.

Ðó là chín pháp.

Ðức Phật bảo :

- Này Di Lặc ! Bồ tát lại có mười pháp hạnh để bỏ các ác đạo, không rơi vào trong ác tri thức. Nhựng gì là mười ?

1/ Ðược Kim cang Tam muội.

2/ Bất cứ ở đâu, Tam muội vẫn có tiến bộ.

3/ Ðược Tam muội giáo thọ thiện quyền.

4/ Ðược ngự độ Tam muội hữu niệm, vô niệm

5/ Ðược Tam muội cùng khắp thế gian

6/ Ðược Tam muội bình đẳng về khổ và vui.

7/ Ðược Tam muội Bảo nguyệt.

8/ Ðược Tam muội Minh nguyệt.

9/ Ðược Tam muội chiếu sáng.

10/ Ðược Tam muội Nhị tịch, đầy đủ với tất cả các pháp.

Này Di Lặc ! Ðó là mười pháp hạnh của Bồ tát để bỏ các ác đạo, không vào trong ác tri thức.

Bấy giờ Bồ tát Di Lặc dùng bài kệ để tán thán đức Phật :

Thế tôn sẵn lòng thí

Ðầu, mắt chẳng tiếc gì

Giữ giới không vi phạm

Thờ giới không ai bằng

Ðã hiện sức nhẫn nhục

Nhẫn nhục là mạnh nhất

Ðã rõ sức tinh tấn

Tinh tấnđại chí

Ðã đọan tất cả ác

Ðại huệ tịch là lực

Thanh tịnh huệ tự tại

Trí huệ thường bậc nhất

Dùng huệ để hàng ma ...

Thượng nghĩa lìa các uế

Thế tôn chuyển pháp luân

Hàng phục các ngọai đạo

Sắc đẹp không ai bằng

Tinh tấn vượt các bến

Khó có thể ví dụ

Thường giảng các pháp bảo

Vợ conẩm thực

Ðức độ Phật vô cùng

Như chim hạc yêu lông

Công đức nhiều vô lượng

Bình đẳng với khổ, vui

Ðức độ Phật vô lượng

Ðức vô thượng, đối hại

Phật chuyên cần vô lượng

Ðạo sư thích nhất tâm

Phật tịnh, thật vô cùng

Tự nhiên không khởi động

Phật minh thật vô cùng

Dưới cây được đại trí

Phật lực hàng phục ma

Thân lớn, Sư tử rống

Phật huệ độ chúng sanh

Giới đứctrí tuệ

Phật đạo hơn các đức

Vô thượng đại trí tuệ

Quang minh dẫn dắt chúng.

Bấy giờ hiền giả A-Nan bạch đức Phật :

- Thật chưa từng có, bạch Thế tôn ! Sở nguyện của Bồ tát Di Lặc nầy đầy đủ, thuyết pháp khuyết giảm, giảng pháp câu chữ bằng nhau, pháp cú đã nói không bị gò bó, giảng kinh hòan tòan không bị lọan.

Ðức Phật dạy :

-Như vậy, như vậy, này A-Nan ! Như lời ngươi nói, Bồ tát Di Lặc đầy đủ biện tài, kinh pháp nói ra không bị khuyết giảm.

Ðức Phật dạy :

- Này A-Nan ! Bồ tát Di Lặc không chỉ dùng bài kện này tát thán ta, nhưng trong một ngàn vô số kiếp ở thời quá khứ bấy giờ có đức Phật hiệu là Viêm Quang Cụ Hưởng Tác Vương, ngài là bậc Như Lai, Vô sở trước, Dẳng chánh giác, hiện tại thành huệ hành an định, thế gian phụ, Vô thượng sĩ, Ðạo pháp ngự, Thiên thượng thiên hã tôn, Phật thiên trung thiên.

Bấy giờ có Phạm chí trưởng giả tên là Hiền Hạnh từ viên quán đi ra, đằng xa trông thấy đức Như Lai đang kinh hành, thân sắc chói sáng rực rỡ. Khi thấy xong, tâm ông suy nghĩ : “ Lành thay, thật chưa từng có. Thân của đức Như Lai vòi vọi, không thể nghĩ lường như vậy, sắc sáng thật đẹp, oai thần chiếu diệu, có đức tốt đẹp để trang sức thân, monh cho đời sau của con được thân hình có đầy đủ sáng oai thần chiếu diệu như vậy, có đức tốt đẹp để tự trang nghiêm ! Khi mong ước như vậy xong, ông liền nằm dài dưới đất tâm niệm rằng : “ Con mong đời sau được pháp thân như Như Lai, bậc Vô sở trước, Dẳng chánh giác. Mong đức Như Lai đi trên thân con “.

Bấy giờ đức Thế tonDiẹ6m Quang Cụ Hưởng Tác Vương Như Lai biết tâm niệm Phạm Chí Hiền Hạnhtrưởng giả tử như vậy nên ngài bước qua thân ông. Ngài vừa bước qua thân ông xong, ông liền pháp nhẫn bất khởi. Bấy giờ đức Phật quay lại nói với thị giả :

- Sở dĩ ta bước lên trên thân của Phạm chí Hiền Hạnh, con của trưởng giả là để ông ta ngay tức khắc được pháp nhẫn bất khởi, mắt có thễ thấy khắp, tai có thể nghe hết, biết được tâm người khác suy nghĩ, tự biết từ đâu sanh đến, thân có thể phi hành, thần thông cụ túc.

Ðức Phật bước qua thân của Phạm chí Hìền Hạnh, ông liền có đầy đủ các trí, ngũ thông, không bị quên mất.

Khi ấy ông làm bài kệ tán thán Phật :

- Qua lại đời, đến mười phương

Nhân trung tôn, không ai bằng

Chỉ chí đạo nhơn các hành

Nguyện cúi kạy các đạo sư

Hơn ánh sáng các thế gian

Và ma-ni, hỏa diệm quang

Hào quang Phật là tối thượng

Nguyện cúi lạy các đạo sư

Như sư tử một lần rống

Các thú nhỏ đều khiếp sợ

Phật giảng pháp cũng như vậy

Ðều hành phục các ngoại đạo

Tướng giữa mày trong mà suốt

Oai vô lượng như núi tuyết

Hào quang Ngài chiếu ba cõi

Phật ở đời không ai bằng

Tướng bánh xe dưới chân thánh

Bánh xe đẹp tới ngàn căm

Mặt đất này và núi non

Không thể động vô thương tôn.

Bấy giờ đức Phật bảo hiền giả A-Nan :

- Muốn biết trưởng giả tử, Phạm chí Hiền Hạnh lúc ấy là ai ? Nay chính là Bồ tát Di Lặc vậy.

Hiền giả A-Nan liền bạch đức Phật :

- Bồ tát Di Lặc được cái nhẫn bất khởi đã từ lâu xa rồi, vì sao không mau được đạo Vô thượng cháng chơn, thành bậc tối chánh giác ?

Ðức Phật bảo :

- Này A-Nan ! Bồ tát vì bốn việc mà không nắm giữ quả vị chánh giác. Những gì là bốn ?

1/ Thanh tịnh quốc độ

2/ Bảo vệ quốc độ

3/ Thanh tịnh tất cả ( chúng sanh )

4/ Bảo vệ tất cả chúng sanh.

Ðó là bốn việc. Bồ tát Di Lặc lúc cầu Phật quả, vì bồn việc này mà không thủ đắc quả Phật.

Ðức Phật bảo

-Này A-Nan ! Chính ta lúc cầu Phật quả cũng muốn thanh tịnh quốc độ, cũng muốn thanh tịnh tất cả, cũng muốn bảo vệ quốc độ, cũng muốn bảo vệ tất cả. Bồtát Di-Lặc phát tâm trước ta bốn mươi hai kiếp. Sau đó ta mới phát đạo ý vào thời hiền kiếp, nhờ hết sức tinh tấn vượt qua 9 kiếp được đạo vô thượng chánh chơn, thành tối chánh giác.

Ðức Phật bảo hiền giả A-Nan :

-Ta nhờ mười việc mà tối chánh giác:

1/không yêu tiếc đối với vật sở hữu

2/Với vợ

3/Với con

4/Với đầu, mắt

5/Với tay,chân

6/Với đất nước

7/Với châu báu, tiền của

8/Với tủy nảo

9/Với máu, thịt

10/Không tiếc thân mạng.

Này A-Nan, ta nhờ mười việc này nên mau được Phật đạo.

Ðức Phật bảo tôn giả A-Nan :

-Lại có mười việc mau được Phật đạo. Những gỉ là mười ?

1/Lấy pháp lập đối với giới đức

2/Thường hành nhẫn nhục

3/Thường hành tinh tấn

4/Thường giũ nhất tâm

5/Thường hành trí tuệ đáo bỉ ngạn

6/Không bỏ tất cả

7/Ðã được tâm nhẫn nhũc, bình đẳng với tất cả

8/Không tập không

9/Ðược pháp nhẫn không

10/Ðược pháp vô tưởng.

Này A-Nan ! Ta nhờ mười pháp này nên tự mình chứng được Phật đạo.

Ðức Phật bảo hiền giả A-Nan :

-Lúc ta mới cầu Phật đạo, cần khổ vô số mới được đạo vô thượng chánh chơn, việc đó chẳng phải là một lần.

Ðức Phật dạy :

- Này A-Nan ! Vào thời quá khứ có người Thái tử con vua tên là Nhất Thiết Hiện Nghĩa, đoan chánh, đẹp đẽ, từ viên quán đi ra đường, thấy một người tật bệnh đau đớn, thấy rồi sanh lòng thương xót, mới hỏi người bệnh :

-Phải dùng những loại thuốc gì mới có thểå trị lành căn bệnh này ?

Người bệnh đáp :

-Chỉ có máu trong thân của vua mới có thể trị lành bệnh của tôi được.

Khi ấy Thái tử liền dùng dao bén đâm vào thân, lấy máu cho người bậnh, chí tâm đem cho người bệnh mà lòng không hối tiếc.

Ðức Phật bảo A-Nan :

-Thái tử Hiện Nghĩa lúc ấy chính là thân của ta. Này A-Nan ! Nước trong bốn biển còn có thể đo lường, chứ máu trên thân ta mà đem cho thì không hạn lượng, vì ta cầu chánh giác vậy.

Ðức Phật bảo hiền giả A-Nan :

-Về thời xa xưa có một Thái tử của nhà vua tên là Liên Hoa Vương, đoan chánh, đẹp đẽ, oai thần vòi vọi, từ viên quán đi dạo, thấy một người thân thể bị bậnh hủi. Thấy xong. Liền sanh lòng thương xót mới hỏi người bệnh :

-Phải dùng những loại thuốc gì mới có thể trị lành bệnh của ngươi ?

Nguời bệnh đáp :

-Nếu được tủy trong thân của nhà vua thoa lên thân tôi thì bệnh mới lành.

Lúc ấy Thái tử liền chẻ xương của mình, lấy tủy đem cho bệnh nhân. Thái tử hoan hỷ huệ thí như vậy mà tâm không hối hận. Thái tử lúc ấy chính là tâm của ta vậy.

Ðức Phật bảo tôn giả A-Nan :

- Nước trong bốn biển còn có thể đo lường, nhưng tủy trong thân ta mà đem bố thí thì không thể tính được.

Ðức Phật bảo tôn giả A-Nan :

-Về thời quá khứ có một vi Vua tên là Nguyệt Minh, đoan chánh, tuyệt đẹp , oai thần vòi vọi, từ trong cung đi ra đường, thấy một người mù, bần cùng đói khát, mò mẫm dọc đường để xin ăn, đi đế chổ vua tâu rằng.

-Một mình vua được tôn quý, an ổn, khóai lạc, còn riêng tôi thì bần cùng, lại thêm mù lòa.

Bấy giờ vua Nguyệt Minh thấy người mù lòa ấy, xót thương rơi lệ, mới nói rằng :

-Có những loại thuốc gì mới có thể rị lành bệnh mắt và làm cho tôi thấy được.

Bấy giờ vua Nguyệt Minh tự móc hai con mắt của mình đem cho người mù. Lúc ấy trong lòng nhà vua vẫn thản nhiên, không có một chút hối tiếc. Vua Nguyệt Minh lúc ấy chính là thân của ta. 

Ðức Phật dạy :

-Núi Tu Ma Ðề-Di còn có thể cân luờng được, nhưng ta đem mắt bố thí thì không thể kể được.

Ðức Phật bảo hiền giả A-Nan :

-Bồ tát Di Lặc lúc xưa cầu đạo không đem tai, mũi, đầu, mắt, tay, chân, thân mạng, trân bảo, thành ấp, vợ conquốc gia để bố thí cho người để thành Phật đạo, chỉ dùng hạnh an lạc, thiện quyền phương tiện để đạt được Phật đạo.

Tôn giả a-Nan bạch đức Phật :

-Bồ tát Di Lặc dùng thiện quyền gì mà được Phật đạo ?

Ðức Phật dạy :

-Này A-Nan , Bồ tát Di Lặc ngày đêm mặt ba y phục vào thân, chắp tay, quỳ gối ở dưới đất, hướng về mười phương nói bài kệ này :

“ Tôi sám hối các lỗi

Quy mạng lễ chư Phật

Khuyên chúng giúp đạo dức

Mong được Vô thượng huệ “.

Ðức Phật bảo hiền giả A-Nan :

-Bồ tát Di Lặc nhờ dùng quyền xảo này nên đạt được đạo vô thượng chánh chơn, thành tối chánh giác. Này A-Nan ! Bồ tát Di Lặc khi cầu đạo có phát lời nguyện rằng : “ Mong cho nhân dân nước tôi không có các sự cấu uế. Ðối với dâm nộ si cạn mỏng, ân cần phụng hành thập thiện, thì tôi mới chứng quả Vô thượng chánh giác “.

Ðức Phật bảo tôn giả A-Nan :

-Nhân dân ở đời sau không có điều cấu uế, phụng hành thập thiện, đối với dâm nộ si không có trong tâm. Chính ngay lúc đó Bồ tát Di Lặc sẽ đắc đạo vô thượng chánh chơn, thành tối chánh giác. Vì sao vậy ? Vì bổn nguyện của Bồ tát Di Lặc đã thành vậy.

Ðức Phật bảo hiền giả A-Nan :

-Lúc ta cầu Bồ tát đạo, muốn bảo vệ tất cả chúng sanh, muốn họ được thanh tịnh nên ở trong thâm, sân, si, ngũ trượt vui ởi nơi sanh tử. Vì sao vậy ? Vì các nhân dân phần nhiều làm điều phi pháp, lấy điều quấy làm điều phải, phụng hành tà đạo, giết hại lẫn nhau, bất hiếu với cha mẹ, tâm thường nghĩ điều ác, ác ý đối với anh em , vợ con, quyến thuộc và người khác, khinh dể hòa thượng, thường phạm sự ô trượt của nam và nữ, ăn nuốt lẫn nhau. Ta nguyện ở trong đời này làm Phật, hoặc họ ở quận nươc, núi rừng, huyện ấp. Chỉ nói các điều ác, trở lại giết hại lẫn nhau, hoặc lấy gạch đá ném nhau, lấy gậy phan nhau, cùng xúm lại mắng chửi lẫn nhau, tự trở về nhà đặt bàn ăn uống, lấy thưốc độc trộn vào thức ăn muốn hại người khác, sanh ý tưởng ô trược, bài báng lẫn nhau, che dấu điều ác, trở lại hối lộ, không có thiện ý.

Ðức Phật day :

-Này A-Nan ! Ta dùng lòng thương bao la nhớ nghỉ tất cả, vì những người này giảng thuyết pháp kinh.

Hiền giả A-Nan nghe đức Phật dạy như vậy liền bạch rằng :

-Con chua từng thấy có vị Thiên Trung Thiên Như Lai, Ðẳng chánh giác nào mà có thể cần khổ, phát đại ý điều phục sự tệ ác, khiến cho thành tựu thiện pháp, vì trừ gánh nặng, đầy đủ pháp bảo, vì bọn người này nói kinh pháp.

Ðức Phật dạy :

-Ðúng vậy, này A-Nan , như lời ngươi nói, đức Phật có thể kham nhẫn điều đó nên đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác mới giáo hóa kẻ cang cường, trừ tối tăm cho mọi loài. Ngài dùng đầy đủ oai đức của Phật pháp, vì hạnhg người này mà nói kinh pháp.

Tôn giả A-Nan bạch đức Phật :

-Con nghe đức Như Lai dùng tâm bình đẳng, tinh tấn, kiên cố như vậy, lông trong người con dựng đứng. Vậy tên kinh này gọi là gì và làm sao phụng hành ?

Ðức Phật dạy :

-Kinh này gọi tên là “ Di Lặc thưa hỏi về bổn nguyện phải gĩu gìn bổn hạnh của Từ Thị, phải khéo thọ trì “ .

Ðức Phật Như Lai thuyết kinh này xong, Bồ tát Di Lặc, hiền giả A-Nan, hiền giả Ðại Ca Diếp, các đệ tử lớn và chúng Bồ tát, tất cả chúng hội, chư thiênl, long, Càn đạp hòa, người trong thế gian...nghe kinh hoan hỷ, đến trước đức Phật đảnh lễ

KINH BỒ TÁT DI LẶC HỎI VỀ BỔN NGUYỆN

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11632)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11948)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11102)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11342)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12062)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12554)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10763)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17973)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11723)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9945)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12348)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15337)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11239)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12095)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15361)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11998)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12403)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11173)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12085)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10602)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12554)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13158)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14837)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12676)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16570)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19661)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13106)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12662)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12252)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11843)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10898)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13519)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11945)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11840)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11631)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12763)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14514)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12612)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15663)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13623)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12893)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9861)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18014)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11163)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9076)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13042)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10298)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12185)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15304)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16607)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12213)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11472)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14267)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19698)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14149)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24605)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10680)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant