Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh A Di Đà

26 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 15530)
Kinh A Di Đà


KINH A DI ĐÀ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366

Nguyên tác Hán ngữ  [1]

Hán dịch: Diêu Tần Cưu Ma La Thập dịch

Việt dịch: HT Thích Tâm Châu

---o0o--- 
 

Lời Phật Dạy

 

• Điều mình không ưa chớ nên trách người.
• Anh hãy là ngọn đuốc và nơi nương náu cho chính mình anh. Anh đừng nên phó thác vào chốn dung thân nào khác.
• Muốn bình thiên hạ, hãy bình tâm địa trước đã.
• Chiến thắng vạn quân không bằng tự chiến thắng mình. Chiến thắng mình là chiến công oanh liệt nhất!
• Các vị Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, thiện nam tín nữ nào luôn luôn làm trọn phận sự, biết ăn ở theo chính giáo, biết noi theo đường chân lý, mới đáng gọi là những người biết tôn kính, thờ phụng, sùng bái, cúng dàng Như Lai bằng cách cao thượng.


Mật Niệm

 

(Thắp đèn đốt hương, toàn thể đứng ngay ngắn,
chắp tay để ngang ngực, mật niệm):

Tịnh pháp giới chân ngôn

Úm lam Sa ha (3 lần)

Tịnh tam nghiệp chân ngôn

Úm sa phạ bà phạ, truật đà sa phạ,
đạt ma sa phạ, bà phạ truật độ hám (3 lần)

(Vị chủ lễ quỳ thẳng, cầm 3 cây hương,
dâng ngang trán, đọc bài nguyện hương)

Nguyện Hương

 

Nguyện đem lòng thành kính,
Gửi theo đám mây hương.
Phảng phất khắp mười phương,
Cúng dường ngôi Tam Bảo.
Thề trọn đời giữ đạo,
Theo tự tính làm lành,
Cùng pháp giới chúng sinh,
Cầu Phật từ gia hộ,
Tâm Bồ đề kiên cố,
Xa bể khổ nguồn mê,
Chóng quay về bờ giác.

 

Kỳ Nguyện

 

Nay đệ tử chúng con, theo lời Phật dạy, phúng tụng kinh chú, trì niệm hồng danh, ngưỡng mong mười phương Tam Bảo, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật, Long Hoa Giáo Chủ Di Lặc Tôn Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, chư tôn Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng, từ bi gia hộ đệ tử chúng con phiền não dứt sạch, tội chướng tiêu trừ, thường được an lành, xa lìa khổ ách, tâm bồ đề bền chắc, chí tu học vững vàng, phúc tuệ song tu, trang nghiêm Tịnh độ. Nguyện cầu chư chân linh, tứ sinh, lục đạo, sớm rõ đường lành, thoát vòng mê muội, ra khỏi u đồ, siêu sinh Lạc quốc. Âm, dương đều lợi, ba cõi cùng nhờ, pháp giới chúng sinh, cùng thành Phật đạo.

 

Tán Phật - Quán Tưởng

 

(Kỳ nguyện xong, vị chủ lễ đứng dậy, đứng thẳng chắp tay và đọc)

Đấng Pháp Vương vô thượng,
Ba cõi chẳng ai bằng,
Thầy dạy khắp trời, người,
Cha lành chung bốn loài.
Quy y trọn một niệm,
Dứt sạch nghiệp ba kỳ,
Xưng dương cùng tán thán,
Ức kiếp không cùng tận.

 

Phật, chúng sinh tính thường rỗng lặng,
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới đế châuđạo tràng,
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời,
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện,
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.

 

Đỉnh Lễ

 

- Chí tâm đỉnh lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai, thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam Bảo. (1 lạy)

- Chí tâm đỉnh lễ: Nam mô Sa bà giáo chủ, Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Long Hoa giáo chủ đương lai hạ sinh Di Lặc Tôn Phật, Đại trí Văn Thù Sư Lỵ Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp chư tôn Bồ Tát, Đạo tràng hội thượng Phật, BồTát.(1lạy)

- Chí tâm đỉnh lễ: Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1 lạy)

 

Trì Tụng

 

Cành dương nước tịnh,
Rưới khắp tam thiên.
Tính không tám đức,
Lợi lạc nhân, thiên.
Thấm nhuần pháp giới,
Tịnh nghiệp tăng diên,
Phúc sinh tội diệt,
Lửa hóa hồng liên.

Úm chiết lệ, chủ lệ chuẩn đề, sa bà ha (10 lần)
Nam mô Thanh lương địa Bồ tát ma-ha-tát (3 lần)

 

Chú Đại Bi

 

(Vị nào muốn tụng chú Đại Bi bằng tiếng Phạm, xin xem ở cuối cuốn kinh này.)

 

Nam-mô Đại bi Hội Thượng Phật, Bồ tát. (3 lần)

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà-ra-ni:

Nam-mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam-mô A rị gia bà lô kiết đế, thước bát ra da, Bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca ru ni ca da. Úm tất bàn ra phạt duệ, số đát na đát tả. Nam-mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị gia bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.

Nam-mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đá sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đá, na ma bà dà ma phạt đặc đậu. Đát diệt tha. Úm a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế. Di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma la ma la, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu ru cu ru kiết mông, cu ru cu ru, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da. Dá la dá la, mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ. Y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lị. Phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hu lu hu lu ma la. Hu lu hu lu hê lị, sa ra sa ra, si ri si ri, su ru su ru, Bồ đề dạ, Bồ đề dạ, Bồ đà dạ, Bồ đà dạ. Di đế rị dạ, na la cẩn trì, địa rị sắt ni na. Ba dạ ma na sa bà ha. Tất đà dạ sa bà ha. Ma ha tất đà dạ sa bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, sa bà ha. Na la cẩn trì, sa bà ha. Ma ra na ra sa bà ha. Tất ra tăng a mục khê gia, sa bà ha. Sa bà ma ha, a tất đà dạ, sa bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, sa bà ha. Ba đà ma kiết tất đà dạ, sa bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, sa bà ha. Ma bà rị thắng kiết ra dạ, sa bà ha.

Nam-mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam-mô a rị gia ba lô kiết đế, thước bàn ra dạ, sa bà ha.

Úm tất điện đô mạn đá ra bạt đà giạ, sa bà ha (3 lần)


Lò hương vừa đốt,
Cõi pháp thơm lây,
Chư Phật bốn biển đều xa hay.
Thấu tâm thành này,
Chư Phật hiện thân ngay.

Nam-mô Hương vân cái Bồ tát ma-ha-tát (3lần)

 

Chân ngôn sạch nghiệp khẩu

Tu lỵ, tu lỵ, ma ha tu lỵ, tu tu lỵ, sa bà ha (3 lần)

 

Chân ngôn sạch nghiệp thân

Tu đa lỵ, tu đa lỵ, tu ma lỵ, sa bà ha (3 lần)

 

Chân ngôn sạch ba nghiệp

Úm sa phạ bà phạ, truật đà sa phạ, đạt ma sa phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)

 

Chân ngôn an thổ địa

Nam-mô tam mãn đá một đà nẫm, úm độ rô độ rô địa vĩ, sa bà ha. (3 lần)

 

Chân ngôn phổ cúng dường

Úm nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhật la hộc. (3 lần)

 

Kệ Khai Kinh

Pháp Phật cao siêu rất nhiệm mầu,
Nghìn muôn ức kiếp dễ hay đâu.
Con nay nghe, thấy, xin vâng giữ,
Chân nghĩa Như Lai hiểu thật sâu.

 

Nam-mô bổn sư Thích ca Mâu ni Phật. (3 lần)
Nam-mô liên trì hội thượng Phật, Bồ tát. (3 lần)

 

Phật nói Kinh A Di Đà

 

Chính tôi được nghe: vào một thời kia, đức Phật trụ ở vườn Cấp-cô-độc, rặng cây Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ, cùng với một nghìn hai trăm năm mươi đại tỳ khưu tăng, các vị ấy đều là đại la hán, là bậc tri thức trong hàng tăng chúng, như là các ngài: trưởng lão Xá-lỵ-phất, Ma-ha Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca - diếp, Ma-ha Ca-chiên-diên, Ma-ha Câu-hy-la, Lỵ-bà-đa, Chu-lỵ-bàn-đà-già, Nan-đà, A-nan- đà, La-hầu-la, Kiều-phạm-ba-đề, Tân đầu-lư-phả-la-đọa, Ca-lưu-đà -di, Ma-ha Kiếp-tân-na, Bạc-câu-la, A-nâu-lâu-đà... Đấy là các vị hàng đại đệ tử. Lại gồm các vị hàng đại Bồ tát: Văn-thù-sư-lỵ Pháp vương tử, A-dật-đa Bồ tát, Kiền-đa - ha-đề Bồ tát, Thường-tinh-tiến Bồ tát... Cùng với các vị đại bồ tát khác, và cùng vô lượng đại chúng chư thiên: Thích-đề-hoàn-nhân..., tất cả đều cùng ở trong pháp hội.

 

Bấy giờ, đức Phật bảo ngài trưởng lão Xá-lỵ-phất rằng: Từ sa-bà này hướng về phương tây quá mười vạn ức cõi nước chư Phật, có một thế giới gọi là Cực Lạc, mà cõi ấy có đức Phật hiệu là A-Di-Đà-Phật và nay ngài đang thuyết pháp tại đó.

 

Này Xá-lỵ-phất, tại sao cõi kia gọi là Cực Lạc? Chúng sinh cõi ấy không có đau khổ và thuần hưởng thụ những sự vui sướng, vì vậy cho nên gọi là Cực Lạc.

 

Lại còn đây nữa, ông Xá-lỵ-Phất, nước Cực Lạc có bảy trùng lan can, bảy trùng màn lưới, bảy trùng hàng cây, những trùng trùng đó bằng bốn ngọc báu, vây bọc xung quanh, thế nên nước kia gọi là Cực Lạc.

 

Lại còn đây nữa, ông Xá-lỵ-phất, cõi Cực Lạc có hồ ao bảy báu, nước tám công đức tràn đầy trong ấy. Lại lấy cát vàng trải khắp đáy ao. Và đường bốn bên đều hợp thành bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê cao quý. Lâu các trên ao đều nghiêm sức bằng vàng bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu, mã não. Hoa sen màu xanh tỏa ánh sáng xanh, hoa sen màu vàng tỏa ánh sáng vàng, hoa sen màu đỏ tỏa ánh sáng đỏ, hoa sen màu trắng tỏa ánh sáng trắng, các hoa sen ấy có những hương vị thanh khiết vi diệu. Này Xá-lỵ-phất, cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế!

 

Lại còn đây nữa, ông Xá-lỵ-phất, nước đức Phật kia thường trổi âm nhạc của các cõi trời; đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thời, thường thường rải xuống hoa mạn-đà-la. Chúng sinh cõi ấy cứ sáng sớm ra, đem những lẳng hoa, đựng nhiều hoa quý, cúng dường chư phương mười vạn ức Phật. Và trong giây lát họ đã về ngay tới nước của họ, đúng kịp bữa ăn. Ăn uống xong rồi, họ đi kinh hành. Này Xá-lỵ-phất, cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế!

 

Lại còn đây nữa, ông Xá-lỵ-phất, nước kia thường có đủ các giống chim, màu sắc lạ đẹp, như chim bạch hạc, khổng tước, anh vũ, cùng chim xá-lỵ, ca-lăng- tần-già và chim cộng-mệnh. Các giống chim ấy, ngày đêm sáu thời, hót tiếng hòa nhã. Trong những tiếng ấy diễn tỏ diệu pháp: năm căn, năm lực, bảy bồ- đề-phận, tám thánh-đạo-phận. Những diệu pháp ấy, chúng sinh cõi này khi nghe được rồi, hết thảy đều niệm: niệm phật, niệm pháp, niệm tăng. Này Xá-lỵ-phất, ông đừng cho rằng các giống chim ấy, do tội báo sinh. Như thế là sao? Cõi nước Phật kia, không ba đường ác! Này Xá-lỵ-phất, nước Phật Di-đà, không tên đường ác, huống là có thực! Các giống chim ấy, do Phật Di-đà muốn cho pháp âm lan rộng cùng khắp, ngài biến hóa ra hình tướng như thế!

 

Này Xá-lỵ-phất, cõi nước Phật kia, gió hiu hiu thổi, rung các cây báu cùng những lưới báu phát ra những tiếng êm dịu nhiệm mầu, như trăm nghìn nhạc đồng thời trổi lên. Ai nghe tiếng ấy, tâm tự nhiên sinh: niệm phật, niệm pháp, niệm tăng. Này Xá-lỵ-phất, cõi nước Phật kia thành tựu công đức trang nghiêm như thế!

 

Này Xá-lỵ-phất, ý ông nghĩ sao? Với đức Phật kia, tại sao lại có hiệu A-di-đà? Này Xá-lỵ-phất, đức Phật kia có vô lượng quang minh soi khắp mười phương, không gì chướng ngại, nên có tên hiệu là A-di-đà. Lại còn đây nữa, ông Xá-lỵ-phất, nói về thọ mệnh của đức Phật kia và cả nhân dân, vô lượng vô biên a - tăng-kỳ kiếp, nên có tên hiệu là A-di-đà.

 

Này Xá-lỵ-phất, Phật A-di-đà thành Phật đến nay đã là mười kiếp!

 

Lại còn đây nữa, ông Xá-lỵ-phất, đức Phật kia có vô lượng vô biên đệ tử Thanh- văn. Các vị đều là bậc A-la-hán, số lượng rất nhiều, không tính hết được. Cả đến Bồ tát cũng đều như thế. Này Xá-lỵ-phất, nước đức Phật kia thành tựu công đức trang nghiêm như thế!

 

Lại còn đây nữa, ông Xá-lỵ-phất, chúng sinh các nơi sinh sang Cực Lạc, đều là các vị chứng ngôi bất thoái. Và trong số đó có rất nhiều vị nhất sinh bổ xứ. Mà số nhiều ấy không thể tính toán để biết hết được, hoặc chỉ nói lên bằng với con số vô lượng vô biên a-tăng-kỳ thuyết.

 

Này Xá-lỵ-phất, chúng sinh được nghe danh hiệu Phật kia, cần nên phát nguyện, nguyện sinh Cực Lạc. Như thế là sao? Vì được cùng với bậc thượng-thiện-nhân hội họp một chốn! Này Xá-lỵ-phất, không thể chỉ có một chút nhân duyên phúc đức thiện căn mà được sinh sang cõi nước Phật kia! Này Xá-lỵ-phất, nếu có thiện namthiện nữ nào, nghe được danh hiệu Phật A-di-đà, trì danh hiệu ấy một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, cho đến bảy ngày, nhất tâm không loạn, khi thọ mệnh hết, người ấy sẽ được Phật A-di-đà, cùng các thánh chúng, hóa hiện ngay trước, khiến cho khi mất, tâm không điên đảo, liền được đưa sang cõi nước Cực Lạc của Phật Di-đà.

 

Này Xá-lỵ-phất, tôi thấy lợi ấy, nói ra lời này, mong chúng sinh nào nghe lời nói ấy, thì nên phát nguyện, sinh sang nước kia!

 

Này Xá-lỵ-phất, như tôi ngày nay tán thán công đức và những lợi ích không thể nghĩ bàn của Phật Di-Đà, thì nơi phương Đông có các đức Phật: A-Súc-Bệ Phật, Tu-Di-Tướng Phật, Đại-Tu-Di Phật, Tu-Di-Quang Phật, và Diệu-Âm Phật. Chư Phật như thế, số lượng nhiều như số cát sông Hằng, các Ngài trụ tại nơi nước các Ngài, hoan hỷ xuất ra tướng quảng-tràng-thiệt, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực, khuyên các chúng sinh: “Chúng sinh cần nên tin tưởng về sự xưng tán công-đức không thể nghĩ bàn của kinh Di-Đà mà hết thảy Phật đã thường hộ-niệm”.

 

Này Xá-lỵ-phất, thế giới phương Nam có các đức Phật: Nhật-Nguyệt-Đăng Phật, Danh-Văn-Quang Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật, Tu-Di-Đăng Phật, Vô-Lượng Tinh-Tiến Phật. Chư Phật như thế, số lượng nhiều như số cát sông Hằng, các Ngài trụ tại nơi nước các Ngài, hoan hỷ xuất ra tướng quảng-tràng-thiệt, che khắp tam thiên đại-thiên thế-giới, nói lời thành-thực, khuyên các chúng sinh: “Chúng sinh cần nên tin tưởng về sự xưng tán công đức không thể nghĩ bàn của kinh Di-Đà mà hết thảy Phật đã thường hộ niệm.”

 

Này Xá-lỵ-phất, thế giới phương Tây có các đức Phật: Vô-Lượng-Thọ Phật, Vô-Lượng-Tướng Phật, Vô-Lượng-Tràng Phật, Đại-Quang Phật, Đại-Minh Phật, Bảo-Tướng Phật, Tịnh-Quang Phật. Chư Phật như thế, số lượng nhiều như số cát sông Hằng, các Ngài trụ tại nơi nước các Ngài, hoan hỷ xuất ra tướng quảng-tràng-thiệt, che khắp tam thiên đại-thiên thế giới nói lời thành thực, khuyên các chúng sinh: “Chúng sinh cần nên tin tưởng về sự xưng tán công đức không thể nghĩ bàn của kinh Di-Đà mà hết thảy Phật đã thường hộ niệm.”

 

Này Xá-lỵ-phất, thế giới phương Bắc có các đức Phật: Diệm-Kiên Phật, Tối- Thắng-Âm Phật, Nan-Tử Phật, Nhật-Minh Phật, Võng-Minh Phât. Chư Phật như thế, số lượng nhiều như số cát sông Hằng, các Ngài trụ tại nơi nước các Ngài hoan hỷ xuất ra tướng quảng-tràng-thiệt, che khắp tam thiên đại thiên thế giới nói lời thành thực, khuyên các chúng sinh: “Chúng sinh cần nên tin tưởng về sự xưng tán công đức không thể nghĩ bàn của kinh Di-Đà mà hết thảy Phật đã thường hộ niệm.”

 

Này Xá-lỵ-phất, thế giới hạ phương có các đức Phật: Sư-Tử Phật, Danh-Văn Phật, Danh-Quang Phật, Đạt-Ma Phật, Pháp-Tràng Phật, Trì-Pháp Phật. Chư Phật như thế, số lượng nhiều như số cát sông Hằng, các Ngài trụ tại nơi nước các Ngài, hoan hỷ xuất ra tướng quảng-tràng-thiệt, che khắp tam thiên đại thiên thế giới nói lời thành thực, khuyên các chúng sinh: “Chúng sinh cần nên tin tưởng về sự xưng tán công đức không thể nghĩ bàn của kinh Di-Đà mà hết thảy Phật đã thường hộ niệm.”

 

Này Xá-lỵ-phất, thế giới thượng phương có các đức Phật: Phạm-Âm Phật, Tú- Vương Phật, Hương-Thượng Phật, Hương-Quang Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật, Tạp-Sắc-Bảo Hoa-Nghiêm-Thân Phật, Sa-La-Thụ-Vương Phật, Bảo-Hoa-Đức Phật, Kiến-Nhất-Thiết-Nghĩa Phật, Như-Tu-Di-Sơn Phật. Chư Phật như thế, số lượng nhiều như số cát sông Hằng, các Ngài trụ tại nơi nước các Ngài, hoan hỷ xuất ra tướng quảng-tràng-thiệt, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực, khuyên các chúng sinh: “Chúng sinh cần nên tin tưởng về sự xưng tán công đức không thể nghĩ bàn của kinh Di-Đà mà hết thảy Phật đã thường hộ niệm.”

 

Này Xá-lỵ-phất, ý ông nghĩ sao? Tại sao gọi là hết thẩy chư Phật hộ niệm kinh này? Này Xá-lỵ-phất, nếu có thiện namthiện nữ nào, nghe và thụ trì kinh giáo này đây, cũng như nghe được danh hiệu chư Phật, tất cả thiện namthiện nữ ấy, đều được hết thẩy chư Phật hộ niệm, được ngôi bất thoái trong đạo vô thượng chính đẳng chính giác. Vì thế cho nên, ông Xá-lỵ-phất, các ông đều nên tin nhận lời tôi và lời chư Phật.

 

Này Xá-lỵ-phất, nếu có người nào đã phát nguyện rồi, nay đang phát nguyện hay sẽ phát nguyện, muốn được sinh sang nước Phật Di-Đà, người ấy chứng được ngôi bất thoái chuyển, trong đạo vô thượng chính đẳng chính giác một khi đã sinh hay nay đang sinh, hoặc là sẽ sinh sang cõi nước kia. Vì thế cho nên, ông Xá-lỵ-phất, các thiện nam tửthiện nữ nhân, nếu có tín tâm, cần nên phát nguyện sinh sang nước kia!

 

Này Xá-lỵ-phất, như tôi hôm nay xưng tán công đức không thể nghĩ bàn của các đức Phật, các đức Phật ấy lại cũng xưng tán công đức của tôi không thể nghĩ bàn, mà thốt lên rằng: “Đức Phật Thích-Ca hay làm những việc khó khăn, hy hữu, thường hay ở trong cõi nước sa bà, năm thứ ác trược: kiếp trược, kiến trược với phiền não trược, với chúng sinh trược, cùng là mệnh trược, được đạo vô thượng chính đẳng chính giác, vì mọi chúng sinh, nói ra những pháp mà cả thế gian cho là khó tin.”

 

Này Xá-lỵ-phất, ông nên biết tôi ở trong cõi đời năm thứ ác trược, làm việc khó làm, được đạo vô thượng chính đẳng chính giác, vì cả thế gian, nói ra những pháp, cho là khó tin, đấy thực là khó!

 

Khi đức Phật nói kinh này xong rồi, ông Xá-lỵ-phất và các Tỳ khưu, hết thảy thế gian, các chúng trời, người và A-tu-la... nghe Phật nói pháp, hoan hỷ tín thụ, làm lễ mà lui.

 

Đà-ra-ni bạt hết thẩy nghiệp chướng căn bản được sinh tịnh độ

 

Nam mô a di đá bà dạ, đá tha già đá dạ, đá địa dạ tha, a di rị đô bà tỳ, a di rị đá tất đam bà tỳ, a di rị đá tỳ ca lan đế, a di rị đá tỳ ca lan đá, già di nhị, già già na, chỉ đá ca lệ, sa-bà-ha. (3 lần)

 

Liên trì hải hội, Di-đà Như lai
Quán-âm, Thế-chí, ngồi trên liên đài.
Tiếp dẫn chúng sinh, cùng lên kim giai.
Nguyện lớn rộng mở, mong khỏi trần ai.

Nam-mô Liên trì hội thượng Phật, Bồ tát ma-ha-tát. (3 lần)

 

Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa

 

Khi Ngài Quán-tự-tại Bồ tát thực hành sâu xa pháp Bát nhã ba-la-mật-đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy khổ ách.

 

Này ông Xá-lỵ-tử! Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc, Sắc tức là Không, Không tức là Sắc. Thụ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế!

 

Này ông Xá-lỵ-tử! Tướng “không” của mọi pháp, không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt.

 

Cho nên trong “chân không” không có Sắc, không có Thụ, Tưởng, Hành, Thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới; không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh; cho đến không có già chết, cũng không có cái hết già chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí tuệ, cũng không có chứng đắc.

 

Vì không có chỗ chứng đắc, nên Bồ tát y theo Bát-nhã ba-la-mật-đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn mộng tưởng điên đảo, đạt tới cứu cánh Niết bàn.

 

Chư Phật trong ba đời cũng y vào Bát-nhã ba-la-mật-đa, được đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác.

 

Cho nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đađại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, trừ được hết thảy khổ, chân thực không hư.

 

Vì vậy, nói ra bài chú Bát-nhã ba-la-mật-đa, liền nói bài chú ấy rằng:

 

“Yết đế, yết đế, Ba la yết đế. Ba la tăng yết đế. Bồ đề tát bà ha” (3 lần)

 

Niệm Phật

 

A-di-đà Phật mình vàng,
Dung quang rực rỡ mười phương khôn bì,
Chiếu vòng năm núi Tu-di,
Mắt như bốn biển cực kỳ trong xanh.
Hào quang hóa hiện Phật hình,
Biến ra Bồ tát cũng thành vô biên.
Độ sinh bốn tám lời nguyền,
Tiếp cho chín phẩm đều lên đài vàng.

Nam-mô Tây phương Cực lạc thế giới đại-từ đại-bi A-di-đà Phật (3 lần)

Nam-mô A-di-đà Phật (tùy niệm nhiều ít)
Nam-mô Quán-thế-âm bồ tát (10 lần)
Nam-mô Đại-thế-chí bồ tát (10 lần)
Nam-mô Địa-tạng-vương bồ tát (10 lần)
Nam-mô Thanh-tịnh Đại-hải-chúng bồ tát. (10 lần)

 

Sám nguyện

 

Mười phương chư Phật ba đời,
Di-đà bậc nhất phát lời độ tha,
Độ lên chín phẩm liên hoa,
Trang nghiêm oai đức so ra ai bì.
Con nay trọn niệm quy-y,
Sám thanh ba nghiệp tội chi không còn.
Vun trồng phúc thiện nơi con,
Đem hồi hướng khắp được tròn công duyên.
Mong người niệm Phật tinh chuyên,
Được phần cảm ứng tùy duyên, tùy thời;
Lâm chung lạc cảnh hiện bày,
Rõ ràng trước mắt không sai chút nào.
Thấy, nghe tinh tiến nâng cao,
Cùng về Cực lạc tiêu dao tháng ngày.
Thoát sinh tử, thấy Phật ngay,
Theo như Phật độ muôn loài hữu duyên.
Vô biên phiền não dứt liền,
Pháp môn vô lượng tinh chuyên tu trì.
Chúng sinh độ hết không từ,
Đều thành Phật đạo không dư không còn.
Hư không dù có tiêu mòn,
Nguyện con phát nguyện vẫn còn nguyên tinh.
Hữu tình cùng với vô tình,
Viên thành Phật trí thanh thanh thoát trần.

 

 

Cúi lạy phương tây cõi An lạc,
Tiếp dẫn chúng sinh Đại-đạo-sư.
Nay con phát nguyện, nguyện vãng sinh,
Nhờ lượng từ bi xin nhiếp-thụ.

Đệ tử chúng con, vì khắp tất cả, bốn ơn ba cõi pháp giới chúng sinh, cầu đạo bồ đề, nhất thừa vô thượng, chuyên tâm trì niệm A-di-đà Phật, muôn đức hồng danh, cầu sinh Tịnh độ. Đệ tử chúng con, phước cạn nghiệp sâu, chướng dầy tuệ mỏng, nhiễm tâm dễ khởi, tịnh đức khó thành, nay đối Từ Tôn, kính gieo năm vóc, bày tỏ một lòng, chí thành sám hối. Con và chúng sinh, khoáng kiếp đến nay, mê tâm bản tịnh, phóng tham, sân, si, nhiễm nhơ ba nghiệp, vô lượng vô biên, tội cấu đã gây, vô lượng vô biên, nghiệp oan đã kết, nguyện đều tiêu diệt. Nguyện từ hôm nay, lập thệ nguyện sâu, xa lìa pháp ác, thề không còn tạo; siêng tu đạo thánh, thề chẳng biếng lui, thề thành chính giác, thề độ chúng sinh. Xin đức Từ Tôn, dùng nguyện từ bi, chứng biết lòng con, thương xót đến con, gia bị cho con. Nguyện khi thiền quán, hoặc lúc mộng mơ, được thấy thân vàng A-di-đà Phật, được chơi cõi tịnh của đức Đạo Sư, được nhờ Từ Tôn, cam lộ rưới đầu, quang minh soi thân, tay xoa đầu con, áo đắp thân con, khiến cho chúng con, chướng cũ tự trừ, căn lành thêm lớn, mau tiêu phiền não, chóng phá vô minh, viên giác diệu tâm, bỗng nhiên khai ngộ, Tịch quang cảnh thật, thường được hiện tiền. Đến lúc lâm chung, biết ngày giờ trước, thân không hết thảy bệnh khổ ách nạn, tâm dứt hết thảy tham luyến mê hoặc, các căn vui đẹp, chính niệm phân minh, xả báo an lành, như vào thiền định. Phật A-di-đà, Quán-âm, Thế-chí, cùng thánh hiền chúng phóng quang tiếp dẫn, giơ tay dắt dìu, lâu các tràng phan, nhạc trời hương lạ, Tây phương cảnh Phật, bày hiện rõ ràng, khiến cho chúng sinh, kẻ thấy người nghe, mừng vui khen cảm, phát bồ-đề-tâm. Bấy giờ thân con ngồi đài kim cương, bay theo sau Phật, như khảy móng tay, sinh vào sen báu, nơi ao thất bảo, ở cõi Tây phương. Khi hoa sen nở thấy Phật, Bồ tát, nghe tiếng pháp mầu, chứng vô sinh nhẫn, giây phút lại đi, thừa sự chư Phật, nhờ ơn thụ ký. Được thụ ký rồi, ba thân bốn trí, năm nhãn sáu thông, vô lượng trăm nghìn môn đà-ra-ni, hết thảy công đức đều được thành tựu. Từ đó về sau, không rời an dưỡng, trở lại sa-bà, phân thân vô số, khắp cả mười phương, dùng sức thần thông tự tại khó bàn, và các phương tiện, độ thoát chúng sinh, đều khiến lìa nhiễm, chứng được tịnh tâm, đồng sinh Tây phương, lên ngôi bất thoái.

 

Nguyện lớn như vậy, thế giới không tận, chúng sinh không tận, nghiệp và phiền não, thảy đều không tận, đại nguyện của con cũng không cùng tận. Nay con lễ Phật, phát nguyện tu trì, xin đem công đức, hồi thí hữu tình, bốn ơn khắp báo, ba cõi đều nhờ, pháp giới chúng sinh, trọn thành Phật trí.

 

Hồi hướng

 

Công đức tụng kinh khó nghĩ lường,
Vô biên thắng phước đều hồi hướng.
Khắp nguyện chúng sinh trong pháp giới;
Đều được vãng sinh về Cực-lạc.
Nguyện tiêu ba chướng trừ phiền não,
Nguyện chân trí tuệ thường sáng tỏ,
Nguyện bao tội chướng thảy tiêu trừ,
Kiếp kiếp thường tu Bồ tát đạo.
Nguyện sinh Cực Lạc cảnh phương Tây,
Chín phẩm hoa sencha mẹ,
Hoa nở thấy Phật chứng vô sinh,
Bồ Tát bất thoái là bạn hữu.

 

Phục nguyện

 

Kính mong:

Phật nhật tỏ thêm, pháp luân quay mãi. Mây từ rợp khắp, nguồn đạo dài lâu. Quốc gia hưng vượng, dân chúng an hòa. Thế giới thanh bình, chúng sinh hoan lạc.

Cúi xin:

Công đức trì chú, niệm Phật, tụng kinh, hồi hướng Tây phương, trang nghiêm Tịnh độ; báo bốn trọng ân, giúp ba đường khổ. Hiện tiền tứ chúng, tăng trưởng thắng nhân; quá vãng chân linh, siêu sinh lạc quốc. Âm dương đều lợi, ba cõi cùng nhờ, pháp giới chúng sinh, đồng thành Phật đạo.

 

(Đại chúng cùng đọc)

Nam-Mô A-Di-Đà Phật

 

Tự quy

(Đại chúng đứng dậy, chắp tay đọc)

 

Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lạy)

Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như biển. (1 lạy)

Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)

 

Nguyện đem công đức này,
Hướng về khắp tất cả.
Đệ tửchúng sinh,
Đều trọn thành Phật đạo.


(Xá 3 xá rồi lui ra)

 

 

Chú Đại Bi bằng tiếng Phạm
The Mantra of Aralokiteshrara

01. Namo ratnatrayaya
02. Namo Aryavalokiteshvaraya
03. Bodhisattvaya Mahasattvaya Mahakarunikaya
04. Om sarva abhayah sunadhasya
05. Namo Sukrtvemama Arayavalokiteshvaragarbha
06. Namo Nilakantha Mahabhadrashrame
07. Sarvarthasubham ajeyam sarvasattvanamavarga mahadhatu
08. Tadyatha Om avaloke lokite karate
09. Hari mahabodhisattva sarva sarva mala mala
10. Mahahrdayam kuru kuru karmam
11. Kuru vijayati Mahavijayati
12. Dharadhara dharin surava
13. Chala chala mama Bharmara muktir
14. Ehi Ehi chinda chinda harsham prachali
15. Basha basham presaya hulu hulu mala
16. Hulu hulu hile sara sara siri siri suru suru
17. Bodhiya Bodhiya Bodhaya Bodhaya
18. Maitreya Nilakantha Dharshinina
19. Payamana svaha Siddhaya svaha Maha sid dhaya svaha
20. Siddhayogeshvaraya svaha. Nilakantha svaha
21. Varahananaya svaha. Simhashiramukhaya svaha
22. Sarvamahasiddhava svaha. Chakrasiddhaya svaha
23. Padmahastaya svaha. Nilakanthavikaraya svaha
24. Maharsishankaraya svaha
25. Namo ratnatrayaya
26. Namo Aryavalokiteshvaraya svaha
27. Om Siddhyantu Mantrapadaya Svaha.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11692)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12020)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11166)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11400)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12126)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12607)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10830)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18052)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11775)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 10008)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10232)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12414)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15416)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11289)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14408)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12167)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15458)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12062)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12477)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11262)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12138)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10680)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12596)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13243)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14926)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12756)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16642)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19742)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13185)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12730)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12332)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11924)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10984)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13595)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 12009)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11917)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11699)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12815)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14601)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12679)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15750)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13680)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12972)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9931)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18080)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11241)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9126)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12258)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13106)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10357)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12247)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15395)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16680)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12302)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11573)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14346)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19790)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14228)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24707)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10740)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant