Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương Sáu: Các học giả Thành Thật Luận

29 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 9942)
Chương Sáu: Các học giả Thành Thật Luận



NỀN TẢNG PHẬT HỌC THIÊN THAI TÔNG
NHỊ ĐẾ ĐƠM HOA TRÊN ĐẤT TRUNG QUỐC
(Foundations of T'ien T'ai Philosophy)
Paul L. Swanson biên soạn - Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
Nhà xuất bản Phương Đông 2010

Chương Sáu

Các học giả Thành Thật Luận

Trong các chương trước chúng tôi đã nghiên cứu về nhị đế như một đề mục phổ thông vào thế kỷ thứ 5 và thứ 6 tại hai miền Nam Bắc Trung quốc như thế nào. Đề tài được luận giải qua sự tương quan giữa nhị đế với các từ Hữu (ngã hoặc hiện hữu) và Vô (vô ngã hoặc Không) là những điểm liên quan đến sự phủ nhận samvrtisatya như cái không thực nên phủ nhận hoặc vượt qua để tiến đến cái chân thựcparamarthasatya. Một giải pháp quan trọng khác đối với vấn đềcố gắng đưa ra ý nghĩa thỏa đáng của Không bằng cách xác định Giả. Phương pháp nầy được các học giả Thành Thật Luận như các sư Trí TạngTăng Mân (1) ưa thích. Kết luận của những tăng sĩ học giả nầy gặp sự tấn công của các học giả thuộc truyền thống Tam Luận, đặc biệt là từ sư Cát Tạng, và bị bỏ qua như thuộc về Tiểu thừa (Hinayanistic), tuy nhiên, học thuyết và cái nhìn của tông phái nầy đối với thế giới hiện tượng gây ảnh hưởng quan trọng trên hệ thống triết học và sự phát triển khái niệm tam đế của Trí Khải. Chúng tôi sẽ khảo cứu những đoạn văn liên hệ về nhị đếgiả danh trong Thành Thật Luận, và đường hướng giải thích những tư tưởng nầy bởi những học giả đại diện cho truyền thống Thành Thật Luận tức Trí TạngTăng Mân.

 

NHỊ ĐẾGIẢ HỮU TRONG THÀNH THẬT LUẬN

Thành Thật Luận 成實論 thuộc loại A tỳ đạt ma được biết do Harivarma (Ha lê bạt ma) (3) biên soạn, và được sư Cưu Ma La Thập dịch sang Hoa văn vào những năm 411-412. Như tựa đề, luận nầy có mục đích “thành lập sự thật qua những giải thích thỏa đáng về Không, và đưa ra Diệt Đế, chân lý thứ ba trong tứ đế, là chân lý đưa đến giải thoát (T32, 363a28). Mục thứ tư trong Thành Thật Luận với chủ đềDiệt Đế (chương 141-154, T32, 327a-334b) là mục nổi bật nhất của tập luận nầy, chủ trương [hành giả] có thể đạt đến Niết Bàn nếu diệt được ba tâm là Giả danh tâm假名心, Pháp tâm法心, và Không tâm 空 心.

Luận về Diệt đế khởi đầu với chương 141 “Lập Giả Danh Phẩm” 立假名 . Chương nầy bắt đầu với sự xác định Diệt đế là diệt ba loại tâm giả, pháp, và không. Nói ngắn gọn lại thì ba loại tâm nầy được diệt như sau:

Diệt Giả tâm bằng phương tiện nghe và suy tư về lý duyên khởi. Diệt Pháp tâm với sự chứng đắc trí tuệ, biết được những thành phần của pháp, như lửa, là thiếu một chủ tể. Diệt Không tâm khi vào được diệt tận định tam muội (T32, 327a 8-12). Ba tâm nầy và ba cách diệt tâm tiếp tục được luận chi tiết. Trong bản văn nầy, nhị đếý nghĩa của giả hữu, hoặc giả danh được sáng tỏ.

Thứ nhất, “giả danh” được định nghĩa như cái được phân biệt khi có mặt từ sự tụ hội của nhiều yếu tố khác nhau. Thí dụ, sự tụ hội của ngũ uẩn được gọi hoặc được cho một cái tên giả là “người”; sự tụ hội của những yếu tố như màu sắc, hương thơm, hình dáng... được gọi là “cái chai”. Định nghĩa nầy được giữ vững bằng cách trưng dẩn lời Phật thuyết về một chiếc xe kéo (đó chỉ là sự tập họp của bánh xe, trục xe v.v...), rằng:

“Tất cả các pháp đều là vô thường, đây khổ não, vắng mặt chủ tể, và thiếu linh hồn. Các pháp sinh khởi từ các duyên khác nhau, và không có định tánh. . Chúng chỉ có tên; chúng chỉ là ký ức; chúng chỉ là tác động. Những tên gọi khác nhau như người, thần tiên … chỉ là sự tập hợp của năm uẩn.”

(T32, 327a 17-19)

Các pháp được nói rằng “chỉ có tên” bởi vì chúng không có thực thể bất biến.

Khái niệm về nhị đế được giới thiệu ở đây. Được biết rằng Phật dạy nhị đếchân đế (paramarthasatya) và tục đế (samvrtisatya). Chân đế gồm các sắc pháp (rupa) và Niết Bàn (4). Tục đế gồm các pháp không có tự ngã (svabhava) mà chỉ có giả danh, giống nhu cái chai là sự tập họp của các duyên như màu sắc..., và người chỉ là sự tập họp của các duyên như ngũ uẩn.

Có một sự nguy hiểm ở đây, như thường thấy, là lối giải thích sai lạc nhị đế như hai chân lý tách biệt, vì thế nên thành thật Luận nhanh chóng chỉ ra rằng Phật dùng tục đế như phương tiện cứu chúng sinh. Nói rằng:

“Chư Phật và chư thánh hiền muốn đưa chúng sinh đến chỗ cởi bỏ những trói buộc vào giả danh nên dùng tục đế dạy người.”

(T32, 327a 25-26)

Chỗ nầy được giảng rộng hơn. Nói rằng vì muốn sử dụng sự vật trong thế giới hiện tượng, sự vật được đặt tên, như “cái chai” v.v... Nếu không có tên thì không thể dùng trong đời sống hằng ngày. Đây là thứ bậc của tục đế. Cũng như thế, khi thuyết về nhị đế, Phật tránh hai đối cực thường và đoạn, những tư duy sai lầm, những chủ trương khắc khổ hoặc phóng túng (T32, 327b3-4). Cũng vậy, tục đếgiáo lý căn bản của chư Phật. Nếu có người thực hành bố thítrì giới, sẽ được tái sinh trên các cõi cao hơn, và sẽ được dạy chân lý tối thượng. Phật pháp sánh với biển cả trước cạn sau sâu. Cùng phương pháp, tục đế được dạy trước những pháp thâm sâu.

Một ẩn dụ khác, rằng một mụt nhọt ươm mủ có thể được lấy ra dễ dàng nếu để khí nóng vào. Cũng vậy, tâm phải được làm cho “thuần thục” với phương tiện trí tuệ thuộc tục đế, và sau đó, với trí tuệ thuộc chân đế sẽ vượt qua những chướng ngại đạt đến giải thoát.

Một điểm quan trọng khác được nói đến trong Thành Thật LuậnTrung Đạo được chứng đắc với phương tiện tục đế (T32, 327b17-18). Giáo thuyết nầy đưa ra sự kiện rằng ngũ uẩn không ngừng sinh khởi, vì thế không hoàn toàn tận diệt. Đây là sự phủ nhận chủ trương đoạn diệt. Cũng vậy, ngũ uẩn không có định tánhhoại diệt từng sát na, vì vậy nên không phải là thường. Đây là sự phủ nhận chủ trương thường hằng. Trung Đạo trong văn mạch nầy có nghĩa là tránh hai cực đoan đoạn diệt hoặc hư vô, và thường hằng. Nhận rằng thế giới sinh khởi là diệt cái thấy sai lầm của chủ trương đoạn diệt hoặc hư vô; nhận rằng thế giới hư hoại là diệt cái thấy sai lầm của chủ trương vĩnh cửu.

Với phương tiện của chân lý thế gian là cái dạy về những hiện tướng giả tạm mà con người có thể nhận lấy được sự sinh và diệt của thế giới hiện tượng. Nếu có người chấp rằng chúng sinh có mặt một cách cố định thì đây là một cái ngu lớn, nhưng lại nếu có người chấp rằng không có gì cả thì đây cũng là một cái ngu lớn. Cái nhìn về Hữu (yu) và Vô (wu) là những quan điểm cực kỳ sai lầm của các chủ trương thường và đoạn. Hành giả có thể đến được chỗ giải thoát từ cái thấy rốt ráo về thực tại qua giáo thuyết về Không, nhưng nếu không khéo thì lại rơi vào chỗ chấp không. Tục đế với giáo thuyết về giả hữu đưa đến sự buông bỏ từ cái chấp thuần không hoặc chủ trương đoạn diệt. Sự chứng ngộ được Chân Không là sự thấy được rằng Không không có nghĩa là thuần túy không có gì cả.

Thành Thật Luận quảng diễn sự thiết yếu để nhận biết được điều trên và vai trò quan trọng của tục đế. Có những người, khi nghe dạy về sự phủ nhận nhân ngã, có thể sinh ra sợ hãi và rơi vào chủ trương đoạn diệt sai lầm. Nhưng nếu, qua tục đế, người nầy trước hết suy nghĩ rằng có một cái ngã chịu khổ vì quả báo từ những hạt giống bất thiện đã từng gieo trồng trong quá khứ, thì người ấy sẽ tin vào thuyết nghiệp quả. Rồi thì người ấy có thể quán sát rằng đặc tính của thế giới hiện tượng là sinh, diệt, và vô thường. Dần dần người ấy có thể chứng được Diệt Đế, nhận biết rằng không hề có cái gọi là chủ tể, và có thể diệt được tất cả tham đắm. Đến đây, người ấy đã nghe và hiểu được giáo lý Không, rằng không có thực thể cố định.

Chúng ta có thể thấy rằng trong mục nầy Thành Thật Luận nhấn mạnh trên ý nghĩa của samvrtisatya như upaya hoặc phương tiện để đưa người đến chỗ chứng ngộ được chân lý. Giả danh hoặc giả hữu là những bề mặt khả dĩ đối với Không, trong đó tất cả các pháp thuộc hiện tượng đều thiếu tự tánh (Không), nhưng vì có những sự tụ hội của nhân và duyên gọi là uẩn, tướng, sắc, và những thứ tương tự mang theo những tên gọi giả tạm khiến đời sống hằng ngày được dễ dàng. Có thể phân biệt được hai chủ trương thường hằngđoạn diệt xuyên qua tục đế, là cái dạy về Không và giả hữu của vạn pháp trong đường lối thích ứng cho mỗi hành giả đến được với chân lý tối thượng. Đề mục kế tiếp nói rộng về ý nghĩa của “giả danh”.

Chương 142 “Giả Danh Tướng”假名相(T32, 327c29-328c23) trong Thành Thật Luận đưa ra hai mươi định nghĩa khác nhau về danh từ nầy. Thí dụ, giả danh, giả hữu được gọi tên như trên vì có từ những pháp khác biệt. Một cái chai có mặt từ những hình dáng, màu sắc khác nhau, và trong chính nó không có tự thể (T32, 328a 6-8). Cũng vậy, chiếc xe hai bánh kia chỉ là sự tụ hội của những thứ như vành xe, trục xe... nhưng tên gọi thì không tự có mặt. Vành, trục là những nhân và duyên hợp thành cái [gọi là] xe, nhưng không có một tự thể từ cái xe nầy. Vì vậy “xe” chỉ là giả danh (T32, 328a10-14).

Cũng vậy, cùng một vật, ngưòi khác nhau tiếp nhận khác nhau. Có người chỉ thấy chiếc đuôi con ngựa, có người chỉ thấy thân ngựa, một ít da và lông, như trong một tỷ dụ nổi tiếng về người mù rờ voi. Hoặc, khi nghe âm nhạc, có người nói rằng anh nghe tiếng của đàn dây, có người nói anh nghe tiếng vĩ cầm v.v... Nói cách khác, cách thể nghiệm của con người thì không cùng tột. Vì thế, chúng ta có thể nói rằng chúng ta thấy đúng hình tướng, nghe đúng âm thanh, nhưng chỉ có thể gọi chúng bằng những tên gọi giả tạm mà thôi (T32, 328a16-24).

Cũng vậy, giả hữu tùy thuộc vào những yếu tố đi kèm theo. Sự vật có mặt đây đó, dài ngắn, lớn nhỏ, thầy trò, cha con, giàu nghèo v.v... Thực pháp thì không từ bất cứ điều gì [sinh khởi] (T32, 328c11-14).

Sau cùng, có bốn cách để giải thích. Đó là Đồng (nhất), Dị, Bất Khả Thuyết, và Không. Tất cả bốn cách nầy đều không thích hợp cho nên chỉ có thể kết luận rằng “cái chai” là giả hữu. Đồng có nghĩa rằng cái chai là một với hình dáng, xúc chạm, mùi vị, cảm giác... của nó (nhưng không có một “cái chai” trong từng phần nầy). Dị có nghĩa rằng có mặt tách biệt với hình dáng... của nó (nhưng không thể có một “cái chai” tách rời những thành phần nầy). Bất khả thuyết có nghĩa rằng người ta không thể giải thích về hình dáng... của cái chai, hoặc rằng cái chai có mặt tách rời những thành phần nầy. Không có nghĩa rằng cái chai hoàn toàn không có mặt (nhưng đây là chủ trương cực đoan của thuyết đoạn diệt, và cái chai có giả hữu). Cả bốn ý niệm nầy đều không thích ứng, vì thế hành giả nên biết rằng cái chai không phải là một vật tự có mặt với một chủ tể, mà chỉ là giả danh (T32, 328c18-23).

Những giải thích khác nhau về giả danhgiả hữu nầy sau cùng được các học giả Thành Thật Luận lược phân làm ba loại. Giả hữu được định nghĩa là nhân thành giả因成 假, tương tục giả 相續假, tương đãi giả 相 待 假(5). Chúng ta hãy khảo cứu tư tưởng của các sư Trí TạngTăng Mân là những học giả đại diện cho Thành Thật Luận.

 

HỌC GIẢ THÀNH THẬT LUẬN ĐỜI LƯƠNG

Sư Tăng Mân (467-527) ở Trang Nghiêm Tự, Nam Kinh (6) là một học giả nổi tiếng của Thành Thật LuậnĐại Bát Niết Bàn Kinh. Sư cùng Trí TạngPháp Vân được nhìn nhận là một trong “ba đại pháp sư đời nhà Lương” (7). Tiểu sử ghi rằng sư biên soạn hơn một trăm tiểu quyển gồm nhiều luận đề khác nhau (T50, 463c11-12), nhưng tất cả đều thất truyền. Chỉ còn hai dấu vết về tác phẩm của sư là phần vấn đáp ngắn với thái tử Chiêu Minh về “nhị đế” và “Dharmakaya” được ghi lại trong “Quảng hoằng minh ký”, nhưng không thể dựa vào để có thể rút ra được những kết luận đáng tin cậy (8), và những nhận định quan trọng về các tác phẩm của sư Cát Tạng như “Đại thừa huyền luận” (T45, 15-77) và “Nhị đế nghĩa” (T45, 77-115). Ở đây, chúng tôi không quan tâm đến chủ đề về dharmakaya, và phần luận về vấn đáp giữa sư và thái tử Chiêu Minh đã được nói đến trong chương Ba. Phần còn lại của chúng ta là sư Cát Tạng.

Trong những bản văn nói về nhị đế của sư như “Nhị đế nghĩa”, và một chương trong “Đại thừa huyền luận”, sư Cát Tạng trước hết phê bình sự giải thích về nhị đế của các học giả Thành Thật Luận trước khi trình bày lối giải thích của Tam Luận. Đầu tiên, nơi phần mở đầu của “Đại thừa huyền luận”, đã dẩn chứng sư Tăng Mân khi nói rằng “nhị đế chỉ cho chỗ thù thắng nơi không còn vọng tưởng, lối về chân thực của đạo” (T45, 15a 18-19). Như vậy, sư giải thích nhị đế khi đưa cả hai vào chỗ lý tưởng, hoặc thực tại được biết bởi người đã chinh phục được tất cả vọng tưởng, và là những giáo lý đưa đường hành giả chứng ngộ được chân lý nầy. Trong văn mạch luận về chân đếquả vị Phật, đưa ra ý tưởng rằng tục đế không vượt trên ngôn từ. Sư Tăng Mân được dẩn chứng như sau:

Hai điều nầy (chân đếquả vị Phật) bất khả thuyết. Quả Bồ Đề xuất hiện bên ngoài nhị đế, vì thế bất khả thuyết. Chân đế vốn là Không. Nó không có trong tứ cú, và vượt ngoài bách phi, vì thể bất khả thuyết.

(T45, 17a 13-15)

Chỗ nầy có ý đối chiếu tục đế gồm những hiện hữu giả tạm nên có thể diễn đạt, trong khi chân đế không thể đến từ văn ngôn và khái niệm như tứ cú “ a, phi a, cả hai a và phi a, chẳng a cũng chẳng phi a”. Sư Cát Tạng đã phê bình chỗ nầy khi nói rằng tục đế cũng bất khả thuyết.

Trong “Nhị đế nghĩa”, phần luận về các thuyết khác nhau liên quan đến sự đồng nhất của nhị đế, được biết sư Tăng Mân đã đưa ra tánh đồng nhất của nhị đế với nghĩa rằng chúng “bất dị”. Sư Cát Tạng trình bày quan điểm của Tăng Mân như sau:

Cái [từ] duyên [sinh] và giả tạm đó thì không khác với Không, vì thế nên tục tức chân. Cái phủ nhận như phương tiện tứ cú, cái đồng nghĩa với phi tự tánh của sự vật thì không khác với Hữu, vì thế nên chân tức tục.

Mặc dù tục tức chân, nó có danh và tướng, và không nên nói là không danh tướng. Mặc dù chân tức tục, nó không có danh và tướng, và không nên nói rằng có danh tướng. Vì vậy nhị đế đồng nhất với nghĩa chúng là bất dị.”

(T45, 105a17-20)

Trong phần phê bình, sư Cát Tạng nói một cách chính xác rằng Tăng Mân đã mâu thuẩn khi đưa ra tánh đồng nhất và bất dị của hiện hữu duyên sinh giả tạm với chân đế, Không với tục đế, khẳng định rằng cõi tục có danh tướng trong khi [cõi] chân chẳng có danh tướng. Nếu chân và tục như nhau, thì có danh và tướng với không danh và tướng cũng nên như nhau (T45, 105b9-28).

Luôn là điều là nguy hiểm khi phán đoán một người nếu chỉ dựa vào những lời phê bình, vì cát tạng có thể đã dựng nên một người bằng rơm. Tuy nhiên, Tăng Mân đã đưa ra hai cõi khác biệt, cõi tục có danh tướngngôn từ, đối lại với cõi chân vượt trên danh tướng. Dường như, theo Tăng Mân, hai chân lý nầy là nhau và không phân biệt. Tuy nhiên, nếu nhị đế đồng nhất, thì chúng ta phải tìm một định nghĩa sáng tỏ hơn về tánh đồng nhất nầy ở một chỗ khác. Một số ít tư liệu còn lưu truyền của Tăng Mân thì không đủ để đưa ra bất cứ kết luận quan trọng nào.

------------------------

Trí Tạng, 智 藏 (458-522) trú Khai Thiện Tự, là một học giả kỳ cựu khác của Thành Thật LuậnĐại Bát Niết Bàn Kinh, nổi tiếng với những bài giảng về Phật pháp (9). Tiểu sử ghi rằng sư thuyết giảngbiên soạn luận về kinh Đại Bát Nhã, Đại Bát Niết Bàn, Pháp Hoa, Thập Địa, Thành Thật Luận, và A Tỳ Đạt Ma Luận (T50, 467b25-27), nhưng tất cả đều thất truyền. Chúng tôi lại phải căn cứ vào những đoạn văn được cho biết là của sư Trí Tạng được các học giả khác, đặc biệt Cát Tạng, dẩn chứng. Chúng tôi gặp may mắn hơn trường hợp của sư Tăng Mân, vì sư Cát Tạng thường xuyên dẩn chứng sư Trí Tạng. Chỗ đứng của sư cũng được chấp nhận hơn là chỗ của sư Tăng Mân.

Chúng ta hãy nhìn lại những đoạn văn nơi vị trí của sư Trí Tạng được đưa ra cùng với sư Tăng Mân. Bắt đầu với “Đại thừa huyền luận”, phần giải thích về nhị đế của sư Trí Tạng được tóm lược như sau:

Nhị đếý nghĩa nền tảng của chân lý [dharmata]; chân lý tối thượng phi-nhị, nhất chân. (T45, 15a 17-18)

Ở đây, sư Trí Tạng nhấn mạnh trên tánh đồng nhất của nhị đế như sự diễn đạt sau cùng, rốt ráo, về một chân lý độc nhất, như vậy tránh được lối nhìn nhị đế như hai lãnh vực tách biệt. Trong phần nói về chân đếPhật quả, đưa ra ý tưởng rằng tục đế thì không vượt trên ngôn từ, Trí Tạng được trưng dẩn như sau:

Chân đế bất khả thuyết nhưng quả Bồ Đề không bất khả thuyết. Vì nguyên lý của chân đế vượt trên tứ cúbách phi, nên bất khả thuyết. Vì quả Bồ Đềtục đế, không phải là bất khả thuyết.” (T45, 17a 15-17)

Tôi [Swanson] không hiểu sư Trí Tạng muốn đưa ra điều gì khi sư nói rằng quả Phật là tục đế (trừ khi sư có ý rằng vì quả Phật được chứng ngộ trong cõi thế gian nầy nên ở trong tục đế), nhưng điểm chính ở đây là chân đế bất khả thuyết. Với nghĩa nầy thì không khác với Tăng Mân, và Cát Tạng đã phê bình như nhau, rằng cả hai tục và chân vượt trên lối giải thích qua ngôn từ, và cái hiểu theo khái niệm. (T45, 17b13-15, c3-4)

Trong phần “Nhị đế nghĩa” luận về những thuyết khác nhau liên quan đến tánh đồng nhất của nhị đế, Trí Tạng trình bày như sau:

Giả [hữu] không có tự tánh; nó sinh khởi nhưng không có thực thể. Vì thế nên tục tức chân. Chân khôngthể tánh nhưng là giả hữu, vì thế nên chân tức tục. Tục đồng với chân; không có hữu tách biệt với bất-hữu. Chân đồng với tục; không có bất-hữu tách biệt với hữu. Vì thế nhị đế là không hai cũng là hai; Trung Đạo tức nhị đế. Chúng là hai cũng là không hai; nhị đế tức Trung Đạo.” (T32, 105a 20-23)

Ở đây, thêm một lần nữa nhị đế lại dược nói đến qua hai danh từ Hữu và Vô, phủ nhận ý nghĩa của Hữu như chủ tể, và xác định giả hữu. Sư Trí Tạng có công vượt lên trên sự đồng hóa Hữu với tục đế, và Vô với chân đế, nhấn mạnh trên sự đồng nhất tại Trung Đạo. Thực sự, trong đề mục cuối của tác phẩm “Nhị đế nghĩa”, sư Trí Tạng tổng lược vị trí của “mười bốn cột trụ” liên hệ đến thể (tánh) của nhị đế trong ba vị trí, là tư tưởng về Trung Đạo sau cùng và nổi bật của Trí Tạng (T32, 107c12ff). “Đại thừa huyền luận” cũng có một bảng tóm lược tương tự về những thuyết nói đến thể tánh của nhị đế vào năm học thuyết, thuyết sau cùng và nổi bật nhất là thuyết của Trí Tạng về Trung Đạothể tánh của nhị đế (T45, 19a6-18). Chúng ta hãy nghiên cứu những học thuyết nầy (đọc Tokiwa, 1979, 330-337; Hirai 1976, 575-581).

Trước hết, trong “Đại thừa huyền luận” những học thuyết liên quan đến thể tánh của nhị đế được tổng lược vào năm thuyết như sau:

  1. Hữu là thể, và Không là dụng. Trong trường hợp nầy tục đế đồng với Hữu, và hành giả phải “diệt” Hữu để vào được Không. Hành giả không từ phương tiện Không chứng ngộ Hữu, vì thế Hữu là gốc (bản) mà Không là ngọn (mạt) (10).

  2. Không là thể và Hữu là dụng. Trong trường hợp nầy Không được nhìn như chân lý nền tảng. Tất cả pháp thế gian (có thể) sinh khởi (được) vì không có tự tánh. Vì thế Không là gốc, và Hữu là ngọn.

  3. Mỗi đế trong nhị đế đều có thể tánh của riêng nó. Thể tánh của tục đếgiả hữu, và thể tánh của chân đế là sự vắng mặt của tướng hoặc giả hữu tức không có chủ tể.

  4. Nhị đếmột thể tánh đơn thuần, nhưng có ý nghĩa khác nhau. Hai chân lý nầy chỉ là một chân lý, nhưng từ phối cảnh của Hữu, chân lý nầy là tục đế, và từ phối cảnh của Không chân lý nầy được gọi là chân đế. Vì sự dụng nghĩa mà (một) trở thành hai.

  5. Sau cùng, Trung Đạothể tánh của nhị đế. Nhị đế là không hai (non-dual) mà hai; điều nầy làm sáng tỏ chân lý của nhị đế là một (an identity). Nhị đế là hai mà không hai (non-dual); điều nầy thành tựu nghĩa Trung Đạo.

Cát Tạng phê bình bốn phần đầu tiên khi đưa ra hai chổ đứng tách biệt cho nhị đế, nhưng dường như sư chấp nhận phần thứ năm là phần [chính đáng] của Trí Tạng (T45, 19b3-6). Sư đưa ra câu hỏi Trung Đạo hoặc ở trong hoặc ở ngoài nhị đế, và Trí Tạng đã giải thích rằng “một cách rốt ráo chỉ là một, vô danh, vô tướng; nó có trong nhị đế”. Như vậy, với Trí Tạng, Trung Đạo không phải là yếu tố thứ ba ở ngoài nhị đế, nhưng là cái hợp nhất làm hiển lộ cái rốt ráo đồng nhất của nhị đế.

Cát Tạng tiếp tục nói rằng “chỉ có một chân đếphương tiện mà nói thành hai, như chỉ có một thừa vì phương tiện mà nói thành ba (T45, 19b13-14). Ở đây, sư tóm lược năm học thuyết qua tứ cú:

Trường hợp thứ nhất là trường hợp của Hữu; trường hợp thứ hai là trường hợp của Bất-Hữu; trường hợp thứ ba và bốn là những trường hợp của cả hai Hữu và Bất-Hữu; và trường hợp thứ năm là trường hợp của chẳng Hữu cũng chẳng Bất-Hữu”.

(T45, 19b15-16)

Với nghĩa nầy, sư Trí Tạng từ chối tất cả năm thuyết, bởi vì, như chúng ta sẽ thấy trong chương sau, sư phát triển một học thuyết gọi là tứ-nhị-đế là thuyết vượt trên tứ cú, và đối lại với Hữu và Bất-Hữu. Tuy nhiên, sư đưa ra thuyết thứ năm về Trung Đạo như thể tánh của nhị đế bằng cách trưng dẩn [kinh luận] để giữ vững thuyết nầy. Điều đáng lưu ý là trong bản văn, trước hết sư dẩn chứng Trung Luận 24:18, là nền tảng học thuyết tam đế của Thiên Thai Tri Khải. Cát Tạng nhận câu thứ nhất “tất cả pháp từ duyên sinh” với tục đế; câu thứ hai “tức Không” với chân đế; câu thứ ba “giả danh” bị lướt qua; câu thứ tư với “Trung Đạo nghĩa” với thể tánh. (T45, 19b18-20)

Cát Tạng cũng dẩn chứng kinh Nhân Vương về hữu đế, bất-hữu đế, và Trung Đạo đế, chứng nhận sự có mặt của một “chân lý thứ ba”, nhưng chọn lựa giữ tướng nhị đế (11). Đối với sư Trí Tạng và thuyết của sư rằng Trung Đạothể tánh của nhị đế sẽ được nói đến sâu hơn sau khi khảo cứu phần kết kuận của đề tài nầy trong tác phẩm “nhị đế nghĩa”.

Trong “Nhị đế nghĩa” (T45, 107c12-108a) sư Cát Tạng tóm lược vị trí của “14 rường cột” liên hệ đến thể tánh của nhị đế vào ba thuyết căn bản:

  1. Nhị đế nhất thể 二 諦 一 體: được giải thích qua ba đường:

a. Chân đế là thể: Chỗ nầy có hai sự khác biệt. Thứ nhất nhấn mạnh trên không là nguyên lý nền tảng hoặc chân đế, vì vạn pháp vốn thiếu chủ tể. Hữu không phải là chân lý có sẳn, nên chân đế ( = Không) là thể tánh của nhị đế. Thứ hai nhấn mạnh trên sự đồng nhất của Hữu với tục đế. Vì tục là cái phải phủ nhận để nhận ra chân, chân đếthể tánh của nhị đế.

b. Tục đế là thể: Chỗ nầy cũng nhấn mạnh Hữu là tục đế, và cần phải phủ nhận tục đế nầy dể thấy được chân đế. Nếu hành giả không thể phủ nhận và “diệt” tục thì không thể chứng được “chân”. Vì tục đến trước và là nội dung của cái phải được vượt qua để thấy được cái chân là, nên tục là thể tánh của nhị đế.

c. Cả tục và chân là thể: Chỗ nầy kết hợp hai vị trí. Nhấn mạnh rằng Hữu vốn không có tự tánh, với nghĩa nầy, chân là thể của tục, và tục là dụng của chân. Tuy nhiên, phải “diệt” tục để nhận ra chân, với nghĩa nầy chân là dụng của tục, và tục là thể của chân. Vì vậy nên cả chân và tục là thể và là dụng của nhau.

    Đề mục nầy có vẻ khó nắm được rõ ràng, đây và kia, với cách dùng hai chữ Thể và Dụng trong ngôn ngữ Trung Hoa. Sư Cát Tạng nói thêm rằng ba lối giải thích nầy được môn đồ của Trí Tạng phát huy, nhưng chính sư Trí Tạng thì đặt nặng rằng chân là thể của nhị đế.

  1. Nhị đế dị thể: 二 諦 異 體 : Thể tánh của tục đế là ba loại giả hữu: nhân thành, tương tục, và tương đãi. Thể của chân đế vượt trên khái niệm và ngôn từ vì không thể được hiểu trong những giới hạn lý luận của tứ cú. Nói cách khác, thể của tục là danh tướng, và thể của chân là vô danh tướng.

  2. Trung Đạo là thể của nhị đế: Chỗ nầy là phần sư Trí Tạng thêm vào, khi nói rằng “vì nhị đế là hai mà không hai, Trung Đạo tức nhị đế. Vì vậy nên Trung Đạo là thể của nhị đế” (T45, 108a4-6). Nhị đế là “hai” khi nhấn mạnh trên sự phân biệt giả lập giữa hai chân lý, trong khi chúng nằm trong một chân lý phi nhị, Trung Đạo. Thuyết nầy được giảng rộng vào thuyết “Tam chủng Trung Đạo” 三 種 中 道 :

a. Trung Đạo thế tục đế: Loại thứ ba nầy gồm ba phần. Thứ nhất, tục đế không phải là không có gì cả, vì nó chứa đựng nhân Bồ Đề và nguyên lý chân thực. Nó không tự tánh vì không thực sự có quả vị để chứng đắc. Đây là Trung Đạo nhân quả = nhân thành (cái thứ nhất trong ba giả hữu) có nghĩa rằng tất cả các pháp chẳng có chẳng không. Như vậy đây là trung đạo với nghĩa phủ nhận nhị nguyên, hoặc hai cực đoan, của hữu và vô.

Thứ hai, tục đế không thường trụ vì tất cả các pháp không ngừng biến hoại, nhưng cũng không phải là hư vô hoặc hoàn toàn đoạn diệt bởi vì vẫn còn có một sự tương tục. Đây là Trung Đạo tương tục (cái thứ hai trong ba giả hữu) có nghĩa rằng các pháp chẳng thường chẳng đoạn. Đây là trung đạo với nghĩa phủ nhận nhị nguyên, hoặc hai cực đoan, của các chủ trương thường và đoạn.

Thứ ba, tục đếTrung Đạo tương đãi (cái thứ ba trong ba giả hữu). Đây là trung đạo với nghĩa phủ nhận nhị nguyên, hoặc hai cực đoan, của đồng và dị.

Như Fukushima Kosai nói, lối phân tích về giả hữu qua ba phần như trên “là một thuyết huyền bí về thế giới hiện tượng, đã phân định thế giới nầy qua những khía cạnh thuộc bản thể (nhân quả), tạm bợ (tương tục), và luận lý (tương đãi). Như vậy, mặc dù thế giới trần tục thuộc hiện tượng luận lý là “thực”, nhưng chỉ là một cái thực [có mặt] một cách tạm thời” (1976, 20). Cát Tạng phê bình thuyết nầy khi đưa ra rằng cái được được hiểu đúng về cái gọi là “giả hữu” nầy thì không khác với, và [có thể nói là] đồng với “chân thực”. Lời phê bình nầy có thể hoàn chỉnh khi nào hai chân lýý nghĩa chỉ cho một thực tại đồng nhất. Tuy nhiên, điều quan trọng là các học giả Thành Thật Luận đã cố gắng giải thích chân lý nầy từ phối cảnh của, hoặc từ sự nhấn mạnh trên, hiện hữu giả tạm thuộc thế gian nầy. Trong ý nghĩa nầy, sự phân tích về Trung Đạo tục đế là một cống hiến lớn của các học giả Thành Thật Luận.

b. Trung Đạo chân đế: Chỗ nầy chỉ cho chân đế chẳng hữu chẳng bất-hữu.

c. Trung Đạo hòa hài hai chân lý: Chỉ cho Trung Đạo là cái làm sáng tỏ sự hài hòa của hai chân lý là chẳng chân đế, chẳng tục đế. Chỗ nầy khác với Trung Đạo chân đế là cái chẳng trụ ở hữu hoặc bất-hữu trong đó chẳng là chân đế cũng chẳng là tục đế, nhưng hài hòa cả hai chân lý. Không thấy có điều gì được nói thêm, nhưng người ta nghĩ rằng đã đến chỗ nơi mà ngôn từ không còn cân xứng (T45, 108a10- 20).

Với thuyết về ba loại Trung Đạo nầy, sư Trí Tạng hầu như hợp với ba loại giả hữu của Thành Thật Luận với thuyết Trung Đạonhị đế để đưa ra sự giải thích về sự đồng nhất của nhị đế trong một chân lý là cái không thể diễn đạt một cách cân xứng qua những danh từ hữu và bất-hữu, có và không. Sư đưa ra nhiều điểm như trong thuyết tam đế của Thiên Thai Trí Khải, như sự hòa hài của nhị đế trong Trung Đạo, và cái một của hai chân lý với cái hiểu đúng về giả hữu và Không. Lối nhấn mạnh của sư Trí Tạng trên giả hữu, không phải là loại hiện tướng ảo hóa cần phủ nhận, mà là sự giải thích về ý nghĩa của Không, là cái đến với Trung Đạo, khiến sư trở thành một người xuất hiện trước Trí Khải Đại Sư qua sự phát triển của học thuyết tam đế.

KẾT LUẬN


Tóm lại, Thành Thật Luận và các học giả của Thành Thật Luận đã cống hiến được điều gì đối với các cuộc tranh luận về nhị đế trong Phật giáo Trung quốc vào hai thế kỷ thứ 5 và thứ 6?. Trước hết, phải nói rằng không hoàn toàn đúng khi cho rằng những tăng sĩ như Tăng MânTrí Tạng thuần túy là những học giả Thành Thật Luận vì họ thuần thục tất cả những kinh bản Phật giáo thời bấy giờ, đặc biệt kinh Đại Bát Niết Bàn. Tuy nhiên, họ nghiêng về quan điểm của Thành Thật Luận, tức những giải thích về Không, và sự nhấn mạnh trên samvrtisatyagiả hữu. Đường lối nầy đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của Phật giáo Đại thừapháp môn đã cắm rễ vững vàng ở đất Trung Hoa.

Cát Tạng lớn tiếng phê bình Thành Thật Luận và các học giả của phái nầy, gọi họ là “Tiểu thừa”, khi nào họ còn giải thích nhị đếhai chân lý tách biệt, hoặc còn mang chiều hướng giải thích nhị đế qua các danh từ thể và dụng hoặc hữu và vô, thì lời bình của Cát Tạng vẫn còn đúng. Tuy nhiên, sự thành tựu của Trí Tạng, đặc biệt sự phân tích của sư về ba loại Trung Đạo là chỗ tránh được sự phân hai của thể và dụng, hữu và vô, thường và đoạn, đưa ra một sự giải thích đồng nhất và liên tục về nhị đế là cái chứa đựng nhiều yếu tố, sau cùng được Trí Khải đưa về một mối trong học thuyết tam đế của đại sư. Những yếu tố nầy gồm có ý tưởng về sự quy nguyên của nhị đế vào Trung Đạo, sự định lượng thỏa đáng về giả hữu và sự vượt trên lối nhìn phân hai và sự chống trái của hữu và vô. Sự cống hiến của các học giả Thành Thật Luận cho thấy rằng tục đế không chỉ là một cái gì đó bị phủ nhận trong ánh sáng của Không, là cái được nhận là chân đế, nhưng là một sự đối đãi cần thiết để phủ nhận một chủ tể trong chân lý của thế giới hiện tượng.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11727)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12044)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11199)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11434)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12141)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12652)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10862)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18101)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11819)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 10042)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10245)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12454)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15453)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11315)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14422)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12214)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15503)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12095)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12495)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11289)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12169)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10702)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12627)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13271)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14977)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12792)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16677)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19777)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13213)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12769)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12370)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11966)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 11012)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13634)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 12046)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11938)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11732)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12857)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14633)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12711)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15772)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13726)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 13009)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9959)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18124)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11263)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9155)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12283)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13148)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10386)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12276)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15470)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16704)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12326)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11596)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14385)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19856)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14244)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24740)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10777)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant