Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 10: Hồi Hướng

02 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 12248)
Chương 10: Hồi Hướng

Chương mười
Hồi Hướng

1. 

Nguyện đem tất cả phúc lành ,
Tạo Bồ tát luận hiến dâng hữu tình .
Cầu cho tất cả chúng sinh ,
Noi gương Bồ tát dấn mình lợi tha .

2. 

Mong sao trong khắp mọi nhà ,
Không còn bệnh khổ rên la khốn nàn .
Những ai sầu muộn bất an ,
Niềm vui bất tuyệt dâng tràn tâm tư .

3. 

Cùng tận kiếp luân hồi trói buộc ,
Mong chúng sinh thường được thảnh thơi .
Mong niềm hỉ lạc không vơi ,
Như chư Bồ tát mọi thời an nhiên .

4. 

Mong sao địa ngục chúng sinh ,
Hưởng vui vô tận như miền Lạc bang .

5. 

Từ bi sưởi ấm hàn băng ,
Dịu cơn nóng bức mưa chan cam lồ .

6. 

Những địa ngục núi đao rừng kiếm ,
Mong hóa thành vườn kiểng vui chơi .
Cành cây gươm giáo sáng ngời ,
Biến thành cây báu thỏa người ước mơ .

7. 

Mong sao những chốn ngục tù ,
Hóa nên vườn đẹp điểm hồ sen thơm .
Thiên nga cùng đủ giống chim ,
Vang lên tiếng hót dịu êm tai người .

8. 

Hố than hừng hóa ra châu báu ,
Nền sắt nung, mã não lưu ly .
Nguyện cho núi ép a tì ,
Hóa ra nước Phật cực kỳ trang nghiêm .

9. 

Mong sao đá lửa đao binh ,
Ở trong địa ngục biến thành mưa hoa .
Cảnh tương tàn cũng trôi qua ,
Chỉ còn thân ái trăm nhà hòa vui .

10. 

Cảnh địa ngục đồng sôi sắt nóng ,
Tuốt thịt lòi xương trắng như bông .
Hóa thành ao nước mát trong ,
Chúng sinh trong ấy thong dong chơi đùa .

11a. 

Chúng địa ngục khởi lên ý nghĩ ,
“ Sao Diêm vương khiếp hãi sợ run .
Những tên ngục tốt kinh hoàng ,
Ai đem năng lực phá tan đau buồn ” .

11b. 

Ngước trông lên cõi hư không ,
Thần Kim cương thủ uy phong đứng nhìn .
Mong sao địa ngục chúng sinh ,
Vui theo Bồ tát, xa liền khổ đau .

12. 

Nguyện cho mưa cam lồ tịnh thủy ,
Tắt lửa hừng phá hủy hỏa khanh .
Chúng sinh khoan khoái ngước lên ,
Quan âm bồ tát hoa sen tay cầm .

13. 

Nguyện cho địa ngục hữu tình ,
Ngước trông Bồ tát vui mừng bảo nhau .
“ Từ nay ta hết lo âu ,
Đức Văn thù ngự trên đầu chúng ta .
Thân quang minh chiếu sáng lòa. ,
Tâm ngài thấm nhuận bồ đề từ bi .
Ban vui cứu khổ muôn nơi ,
Tiêu tan khiếp sợ khắp loài chúng sinh ” .

14. 

“ Hãy nhìn ngài ở trong cung ,
Có ngàn thiên nữ hát mừng ngợi ca .
Trên trời mưa xuống thiên hoa ,
Đại bi đẫm lệ chan hòa mắt xanh .
Bàn chân ngài tợ đóa sen ,
Có tràng vương miện hiến dâng lên ngài ” .

15. 

Nguyện cho địa ngục hữu tình ,
Được trông theo đám mây lành hiện ra ,
Tâm chư Bồ tát bao la ,
Cam lồ rưới mát muôn nhà chúng sinh .

16. 

Nguyện cho cõi bàng sanh thoát được ,
Nỗi kinh hoàng mạnh nuốt yếu thua .
Không còn thịt xáo nồi da ,
Nguyện cho quỷ đói vui ca thái bình .

17. 

Nguyện Tay vàng Quán Thế âm ,
Không ngưng rưới rắc chứa chan cam lồ .
Cho loài quỷ đói được no ,
Thường xuyên mát mẻ dứt bao ác hành .

18. 

Nguyện cho mù thấy sắc hình ,
Nguyện người điếc được nghe thanh xa gần .
Nguyện cho sản phụ lâm bồn ,
Không hề đau đớn sinh con quý hiền .

19. 

Nguyện cho kẻ lõa hình được áo ,
Kẻ đói lòng cơm cháo nước trong .

20. 

Bạc tiền cho kẻ khốn cùng ,
Kẻ đang tuyệt vọng khởi lòng tin sâu .

21. 

Nguyện người mắc bệnh khỏi mau ,
Nguyện nhân gian chấm dứt bao tật nàn . 

22. 

Người khiếp sợ được bình an ,
Kẻ đang bị trói ngập tràn tự do .
Mọi người nghĩ đến lợi tha ,
Yếu thành mạnh khỏe muôn nhà an vui .

23. 

Nguyện thương nhân khắp nơi an ổn ,
Thành tựu điều mong muốn không sai .

24. 

Tàu buôn cập bến vui thay ,
Thỏa bao ước nguyện sum vầy thân nhân .

25. 

Nguyện cho kẻ lữ hành lạc lối ,
Gặp được ngay bạn hữu đồng hành .
Thoát bao thú dữ ác nhân ,
Đường đi thuận lợi bình an đến nhà .

26. 

Nguyện chư thiên chúng thiện thần ,
Giữ gìn săn sóc kẻ vương ách nàn: .
Yếu già quan quả cô đơn ,
Ngu si , điên dại , tuyệt đường sinh nhai .

27. 

Nguyện người thoát tám nạn tai ,
Sống đời hạnh phúc, đủ đầy đức tin .
Lòng thương và trí thông minh ,
Nhớ đời quá khứ giữ gìn chánh tri .

28. 

Nguyện hữu tình được kho vô tận ,
Vật cần dùng khỏi bận lòng chi .
Không tác hại chẳng sân si ,
An bình hạnh phúc muốn gì được ngay .

29. 

Nguyện bần hàn dung nhan rạng rỡ ,
Khổ hạnh gầy uy đức trang nghiêm .

30. 

Gái hèn chuyển hóa thân nam ,
Nghèo nên quý hiển kiêu căng hạ mình .

31. 

Nguyện cho tất cả hữu tình ,
Dứt bao ác nghiệp thiện hành mến ưa . 

32. 

Hành bồ tát hạnh say sưa ,
Không bao giờ xả bồ đề tâm kia. .
Nguyện chư Thiện thệ từ bi ,
Đưa tay tiếp dẫn xa lìa nghiệp ma .

33. 

Nguyện hữu tình sống lâu vô hạn ,
Trải tháng ngày tận hưởng an vui .
Tử vong cùng những vận xui ,
Không từng biết đến chẳng thời nghe danh .

34. 

Nguyện cho khắp mười phương thế giới ,
Đầy rừng cây Như ý trang nghiêm .
Pháp âm vi diệu vang rền ,
Phật và Bồ tát thuyết tuyên đạo mầu .

35. 

Nguyện cho đại địa khắp nơi ,
Như lưu ly chẳng góc gai đá ghềnh .

36. 

Nguyện bao pháp hội Thanh văn ,
Có chư Bồ tát quang lâm đạo tràng .

37. 

Nguyện cho các hữu tình nghe được ,
Từ rừng cây xào xạc Pháp âm .
Từ nơi ánh sáng, hư không ,
Lá hoa chim chóc truyền thông nghĩa mầu .

38. 

Nguyện cho tất cả cùng nhau ,
Thường đem phẩm vật dồi dào như mây .
Cúng dường Phật đấng đạo sư ,
Cùng chư Bồ tát tâm từ bủa lan .

39. 

Nguyện thế gian mưa chan đúng lúc ,
Cho mùa màng ngũ cốc tăng gia .
Nguyện cho quốc chủ nhân hòa ,
Trị dân đúng pháp muôn nhà an vui .

40. 

Nguyện thần chú linh nghiệm ngay ,
Tiêu tai giải nạn thuốc hay bệnh lành. .
Nguyện la sát quỷ phi hành ,
Khởi tâm thương xót thường hành từ bi .

41. 

Nguyện hữu tình không còn đau khổ ,
Không lỗi lầm chẳng sợ hãi chi .
Không tật bệnh, bị khinh khi ,
Chẳng ai gặp phải điều gì kém vui .

42. 

Nguyện khắp chốn già lam tu viện ,
Lời kệ kinh hưng thịnh vang xa .
Nguyện cho tăng chúng hợp hòa ,
Bao nhiêu pháp sự tăng già thành công .

43. 

Nguyện Tỳ kheo muốn tu hành ,
Tìm ngay được chốn núi rừng hoang vu .
Đoạn trừ tán loạn tham ưu ,
Thân tâm khinh khoái tiến tu thiện hành .

44. 

Nguyện cho ni hết cạnh tranh ,
Được nhiều lợi dưỡng tu hành không lui .
Nguyện hai bộ chúng tăng ni ,
Giới thường tăng tiến luật nghi chẳng rời .

45.

 Nguyện sao cho những người phạm giới ,
Biết ăn năn cải hối lỗi lầm .
Được sinh vào cõi tốt lành ,
Dứt trừ vĩnh viễn ác hành đã qua .

46. 

Nguyện cho hiền giả xuất gia ,
Được người tôn kính muôn nhà cúng dâng .
Đạo tâm sáng tợ vầng trăng ,
Tiếng thơm giới đức mười phương vang rền .

47.

 Nguyện cho tất cả thế gian ,
Xa lìa ác đạo khổ nàn không vương .
Mau thành quả Giác khôn lường ,
Bằng thân vượt hẳn sắc thân cõi trời .

48. 

Nguyện hữu tình ở khắp nơi ,
Đối trên chư Phật không lơi cúng dường .
Nguyện cho chúng được an khương ,
Vô biên phước đức nhờ nương Phật ngài .

49. 

Mong hạnh nguyện của chư Bồ tát ,
Được viên thành lợi lạc chúng sinh .
Nguyện cho tất cả hữu tình ,
Được trên chư Phật Cha lành đoái thương .

50. 

Nguyện hàng Độc giác, Thanh văn ,
Cũng đều thấm nhuận chứa chan phúc lành .

51. 

Cho đến lúc thăng Hoan hỉ địa ,
Nguyện mông ân Đại trí Văn Thù .
Tôi thường nhớ được kiếp xưa ,
Đời nào cũng được xuất gia tu hành .

52. 

Nguyện luôn được ở rừng xanh ,
Uống ăn đạm bạc vui thiền tịch liêu .

53. 

Nguyện khi cần hỏi pháp sâu ,
Thấy ngay bồ tát Văn Thù hiện ra .

54. 

Mong lợi lạc hằng sa sinh chúng ,
Nguyện cho tôi được giống như ngài: .
Việc làm viên mãn không sai ,
Trí bi vô tận độ đời vô biên .

55. 

Phương nào còn có chúng sinh ,
Tôi nguyền đến đấy xua tan khốn cùng. .
Bao lâu cùng tận thời không ,
Tôi nguyền độ chúng thoát vòng trầm luân .

56. 

Bao thống khổ chúng sinh tạo tác ,
Tôi nguyền xin lãnh hết nơi thân .
Bao nhiêu bồ tát thiện nhân ,
Quả son xin nguyện hiến dâng hữu tình .

57. 

Dược phương duy nhất tối linh ,
Ban vui cứu khổ chúng sinh muôn đời .
Là Ba ngôi báu sáng ngời ,
Nguyện tồn tại mãi trên đời độ sinh .

58. 

Con kính lễ Văn Thù Bồ tát ,
Khiến xui con được phát tâm lành ,
Con xin kính lễ bạn lành,
Bao nhiêu Bồ tát trưởng thành tâm con.

HẾT

source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11648)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11973)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11124)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11361)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12082)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12574)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10778)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17999)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11738)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9962)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10188)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12362)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15359)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11260)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14341)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12122)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15384)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12013)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12426)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11197)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12098)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10630)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12568)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13181)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14854)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12705)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16589)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19679)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13118)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12676)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12276)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11869)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10910)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13548)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11967)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11854)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11648)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12779)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14532)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12628)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15672)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13638)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12915)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9885)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18029)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11184)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9092)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12194)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13072)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10324)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12207)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15329)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16618)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12231)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11497)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14282)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19717)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14163)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24623)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10705)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant