Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 6: Nhẫn Nhục

02 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 11917)
Chương 6: Nhẫn Nhục

Chương Sáu
Nhẫn Nhục

1-2.

Thiện hành tích lũy ngàn năm ,
Một giây nóng giận tiêu tan tức thì .
Ác nào sánh kịp sân si .
Hạnh tu nhẫn nhục không gì quý hơn .

3. 

Hận thù nếu cứ ôm giữ mãi ,
Chẳng bao giờ tìm thấy an vui .
Còn đâu hạnh phúc thảnh thơi ,
Bỏ ăn mất ngủ, trọn đời bất an .

4. 

Một người gia chủ nổi sân ,
Có khi bị giết bởi chân tay mình .
Những người ông đã tận tình ,
Giúp cho tài sản an bình bấy lâu .

5. 

Vì nóng giận, bạn bầu thân quyến ,
Đều bỏ ta, chẳng luyến lưu chi ,
Dù ta bố thí tràn trề ,
Tâm sân hận mãi khổ vì cô đơn .

6. 

Kẻ thù giận dữ tạo nên ,
Bao nhiêu đau khổ triền miên đọa đày ,
An vui hiện tại tương lai ,
Đều là quả phúc cho người không sân .

7. 

Được nuôi dưỡng bằng tâm bất mãn ,
Ái biệt ly, ghét chán gặp hoài .
Hận thù cứ thế dằng dai ,
Cuối cùng hủy diệt con người nơi ta .

8-9. 

Hãy nên trừ khử thức ăn ,
Duy trì lớn mạnh hận sân nơi lòng .
Gặp gì cũng cứ như không ,
Giận thì tổn đức điều mong chẳng thành .

10. 

Tại sao phải tự hành tự phạt ,
Với việc còn biện pháp cứu nguy .
Nếu không còn có cách chi ,
Thì đau khổ liệu ích gì cho ai .

11. 

Với bản thân và người bằng hữu ,
Ta cầu mong cho khỏi khổ đau .
Khỏi lời lăng nhục, ác thô ,
Nhưng còn với kẻ oán thù không đâu .

12. 

Đời vui hiếm, lắm sầu đau ,
Nếu không có khổ, ai nào xuất ly .
Tâm ơi dũng cảm lên đi ,
Dù bao đau khổ sá chi lẽ thường .

13. 

Kẻ ngoại giáo theo đường khổ hạnh ,
Chuốc vào thân những cảnh đớn đau .
Nay ta muốn đắc đạo mầu .
Sao không can đảm chịu bao oan tình .

14-15. 

Đói lòng, nóng lạnh, bọ sâu ,
Kẻ quen chịu đựng có đâu than phiền .
Nhờ quen những hại nhỏ nhen ,
Ta dần nhẫn được rối ren khổ nàn .

16. 

Những nỗi khổ trói giam đánh đập ,
Thời tiết hay bệnh tật gây nên .
Đừng nên vì chúng não phiền .
Chỉ càng thêm khổ cho mình ta thôi .

17-18. 

Trước cùng một cảnh máu me ,
Kẻ thì ngất xỉu người thì tiến lên .
Đều do tập quán mà nên ,
Vậy ta hãy tập xem khinh khổ sầu .

19-20. 

Bậc trí dù trải bao gian khó ,
Vẫn giữ tâm ổn cố bình an .
Như người chiến sĩ vinh quang ,
Bị thương vẫn tiến khi chưa tan thù .

21. 

Nhờ đau khổ, hết kiêu căng ,
Chán xa sinh tử, xót thương hữu tình .
Ăn năn tội ác, vui lành ,
Đây bao thiện đức do từng khổ đau .

22. 

Trên đời có biết bao thống khổ ,
Bệnh tật và mưa gió gây nên .
Khổ nào cũng bởi duyên sinh ,
Sao ta chỉ giận hữu tình mà thôi .

23-24. 

Ốm đau cùng những sân si ,
Dù không ai muốn vẫn thì khởi lên .
Cơn sân không tự biết mình ,
Kẻ sân không tính ta nên nổi sùng .

25-26. 

Tội áclỗi lầm đủ thứ ,
Không bỗng dưng vô cớ phát sinh .
Nhân duyên tụ hội mà thành ,
Các duyên cùng quả đã đành vô tâm .

27-31. 

Việc gì cũng bởi duyên sinh ,
Hiểu ra lẽ ấy không nên oán hờn .
Những gì sinh diệt hợp tan ,
Chỉ như huyễn hóa bóng vang thôi mà .

32. 

“ Nếu mọi sự đã là không thực ,
Ai là người chế phục cái chi .
Sao còn nói diệt sân si ” ,
Đời này thật có khổ vì nổi sân .

33. 

Khi ai vô cớ hại mình ,
Hãy nên xem đấy duyên sinh, vô thường .
Duyên kia có hợp có tan ,
Ta nên hoan hỉ dễ dàng bỏ qua .

34. 

Nếu đau khổ do ta tự chọn ,
Thì không ai lựa chọn khổ đau .
Lẽ ra không kẻ khổ sầu ,
Vậy nên tất cả quy vào duyên sinh .

35. 

Có người sơ ý bị thương ,
Vì gai nhọn hoặc dao gươm đâm mình .
Có người ham muốn dục tình ,
Đâm ra sầu khổ hại mình bỏ ăn .

36-37. 

Có người tự ải, tự trầm ,
Tự ăn độc dược do tâm khổ sầu .
Tự mình còn hại mình thay ,
Làm sao không tác hại dây đến người .

38. 

Dù không thể xót thương những kẻ ,
sân si đã giết hại ta .
Đừng nên giận họ ít ra ,
Bởi vì tất cả chỉ là duyên sinh .

39. 

Nếu là một kẻ ngu si ,
Thói ưa tác hại chỉ vì ác tâm .
Nổi sân với họ cũng lầm ,
Như sân ngọn lửa đã làm cháy ta .

40. 

Nếu sự hại phát sinh ngẫu hứng ,
Nơi một người tính vốn hiền lương .
Nổi sân vì họ cũng dường ,
Giận hư không để khói vương bụi mù .

41. 

Khi ta bị đánh bằng cây ,
Ta thường oán ghét con người đánh ta .
Kẻ kia cũng bị sử sai ,
Bởi cơn giận dữ vậy ai đáng thù .

42. 

Có lẽ xưa ta từng tác hại ,
Nên ngày nay đáng phải tổn thương .
Tư duy như vậy nguồn cơn ,
Không còn sân hận đau buồn làm chi .

43. 

Từ hai phía có đau này ,
Bên kia là gậy bên này là thân .
Kẻ mang gậy người mang thân ,
Vậy ta nên phải giận sân kẻ nào .

44. 

Tấm thân thương tích dạng người ,
Chút chi động đến cũng thời đớn đau .
Chính vì ngã ái mê ngu ,
Ta ôm giữ nó vậy giờ trách ai .

45. 

Kẻ ngu không muốn khổ đau ,
Mà sao cứ tạo nhân sầu khổ luôn .
Rồi khi hại đến bản thân ,
Do mình tự tác sao sân hận người .

46. 

Ví như quỷ sứ canh giữ ngục ,
Cùng núi đao rừng kiếm hỏa xa .
Đều do tự nghiệp mà ra ,
Gieo nhân gặt quả, đừng ta thán người .

47-48. 

Kẻ hung ác vì hại ta ,
Mà sa địa ngục chịu bao khổ nàn .
Còn ta nhờ nhẫn không sân ,
Tiêu trừ ác nghiệp phước tăng vô vàn .

49. 

Rốt cuộc ta mới là người hại ,
Kẻ ác nhân có lợi cho ta .
Sao còn sân hận người ta ,
Hỡi tâm thô bạo hồ đồ kia ơi .

50. 

Công phu Nhẫn nhục giúp ta ,
Khỏi sa địa ngục, phần ta đã đành .
Nhưng còn kẻ xấu hại mình ,
Số phần nào sẽ để dành cho y .

51. 

Nếu ta tác hại người gây hấn ,
Tội của y cũng vẫn không tan .
Mà ta lại mất bình an ,
Hạnh tu nhẫn nhục khó làm phải tiêu .

52. 

 Tâm ta đâu có dạng hình ,
Chẳng ai có thể tổn thương tâm này .
Nếu tâm chấp trước thân đây ,
Liền sinh đủ thứ ách tai khốn nàn .

53. 

Những lời thô ác khó nghe ,
Chẳng can hệ đến thịt da thân này .
Hỡi tâm ngu xuẩn kia ơi ,
Vì sao nó lại khiến ngươi khổ sầu .

54. 

Nếu ngươi bảo vì câu nói ấy ,
Làm người ta hết thấy ưa tôi. .
Nhưng dù ai ghét, thương ngươi ,
Có ai thay đổi nghiệp ngươi đâu mà .

55. 

Nếu vì thế mà ngươi mất lợi ,
Hãy nhớ như mây nổi, chiêm bao .
Chết không mang được gì theo ,
Ngoài ra ác nghiệp vẫn đeo bên mình .

56-58.

 Làm điều ác để nuôi thân ,
Cuối cùng cũng chết, sao bằng chết non .
Chiêm bao vui sướng trăm năm ,
Với trong khoảnh khắc tỉnh đồng hư vô .

59. 

Dù kẻ có rất nhiều tài sản ,
Hưởng thú vui sống trọn tuổi trời .
Nhưng khi chết vẫn đơn côi ,
Khác nào bị cướp , nước trôi , cháy nhà .

60. 

Nếu bảo nhờ tiền tài mới sống ,
Mới làm lành lánh dữ tu thân .
Nhưng ngươi vì lợi nổi sân ,
Phước bèn mất hết còn tăng tội nhiều .

61. 

Nếu vì sự sống nhu cầu ,
Chuyên làm ác nghiệp để sau đọa đày .
Một đời sống thật xấu xa ,
Thì đâu có lợi cho ta hay người .

62. 

Nếu sân hận “ Vì lời phỉ báng ,
Khiến người không tin tưởng nơi tôi ” .
Vậy sao không giận một người ,
Khi y cũng phỉ báng người khác kia . 

63. 

Người kia bị mất lòng tin ,
Không can hệ đến tôi nên chẳng phiền .
Lời thô ác bởi đảo điên ,
Sao không nhẫn được lại sinh oán hờn . 

64. 

Nếu nổi sân vì người phá tháp ,
Phá hại chùa , tượng , Pháp cao siêu .
Thật là vô lối xiết bao .
Vì chư Thiện thệ tơ hào chẳng suy .

65. 

Với ai làm hại bạn, thầy ,
Thân bằng quyến thuộc ta hay bậc hiền .
Hãy xem tất cả do duyên ,
Chẳng nên sân hận chuốc thêm đau lòng .

66. 

Thế gian đủ thứ hại mình ,
Do vô tình hoặc hữu tình gây nên .
Sao ta chỉ giận hữu tình ,
Hãy nên nhẫn chịu, chớ sinh oán cừu . 

67-68. 

Kẻ do ngu sitác hại ,
Người do ngu chấp ngã nổi lên .
Đều do oan nghiệt gây nên ,
Vậy ai có lỗi ai không trong này .

69. 

Khi đà thấy biết vậy rồi ,
Hãy nên nỗ lực tiến tu hạnh lành .
Đãi nhau bằng tấm chân tình ,
Từ tâm giải thoát, chớ hành khổ nhau .

70. 

Ví như khi mái nhà bốc lửa ,
Hãy mau tìm cách chữa cháy lan .
Như là rút bớt cỏ tranh ,
Hoặc là những thứ dễ thành mồi ngon .

71. 

Những gì do bởi tâm tham ,
Làm cho lửa giận lan tràn đến nơi .
Đốt kho công đức tơi bời ,
Chóng nên trừ khử kịp thời tâm kia .

72. 

Như kẻ bị trói tay chờ chết ,
Chịu đứt tay để được thoát nguy. .
Ta nhờ các khổ lúc tu ,
Mà may thoát khỏi ngục tù Diêm vương .

73. 

Nếu hiện tại ta không chịu được ,
Những khổ đau nhỏ nhặt hàng ngày .
Sao không sợ thói sân si ,
Cái nhân địa ngục A tỳ gớm ghê .

74. 

tham dục chẳng chán chê ,
Mà ta luống chịu trăm bề khổ đau .
Nhưng chưa được lợi ích nào ,
Cho bản thân hoặc cho bao nhiêu người .

75. 

Cái khổ này thực không đáng kể ,
Nhưng viên thành lợi ích vô biên .
Là trừ khổ hại chúng sinh ,
Vậy khi nhẫn chịu còn nên vui mừng .

76. 

Có người rất đỗi sướng vui ,
Ngợi ca công đức kẻ ngươi đang thù .
Vậy này tâm ý ta ơi ,
Hãy cùng ca ngợi cho vơi khổ sầu .

77. 

Sự tùy hỷ phát sinh như thế ,
Là suối nguồn an lạc thanh cao .
Được chư Phật cùng khen lao ,
Cách hay thu phục biết bao nhiêu người .

78. 

Nếu ngươi bảo “ Nó được khen ,
Nhưng tôi không muốn nó nên anh hào ” . ,
Vậy thì chớ trả thù lao ,
Rồi ngươi sẽ chuốc xiết bao não phiền . 

79. 

Ngươi khoái chí chúc lành kẻ khác ,
Khi họ khen công đức của ngươi .
Nhưng sao ngươi lại không vui ,
Khi nghe khen ngợi kẻ ngươi oán thù .

80. 

 Phát tâm vô thượng bồ đề ,
Là mong tất cả mọi người an vui .
Vậy nay chúng được thảnh thơi ,
Sao ngươi trở lại giận sôi trong lòng .

81. 

Lúc đầu ngươi phát tâm mong ước ,
Cho hữu tình được phước lớn lao .
Cớ sao nay lại khổ sầu ,
Thấy người hưởng chút tơ hào lợi danh .

82. 

Chúng sinh vốn cha mẹ mình ,
Đáng ngươi cấp dưỡng tận tình lo toan .
Họ nay tự lực bình an ,
Đã không mừng lại đem tâm ghét hiềm .

83. 

Không mong chúng được niềm vui nhỏ ,
Nói gì mong giác ngộ toàn vui .
Tâm bồ đề ấy còn đâu ,
Nơi người ganh ghét kẻ giàu hơn ta .

84. 

Quà kia được biếu kẻ thù ,
Hoặc đang còn ở trong kho nhà người .
Thì đâu có phải phần ngươi ,
Không chi can hệ khiến ngươi phải rầu .

85. 

Sao tự phá phước cùng công đức ,
Còn khiến cho kẻ khác mất tin .
Gia tài công đức không gìn ,
Chính ngươi đáng tự giận mình là hơn .

86. 

Ngươi không sợ những ác hành ,
Do mình đã tạo, nên thành kém may .
Thế mà còn nổi sân si ,
Vì ganh tị với phúc người hay sao .

87. 

Giả như kẻ thù ngươi bị hại ,
Có gì đâu trong ấy để vui .
Kẻ kia do đến vận xui ,
Không do ngươi muốn mà người tổn suy .

88. 

Dù người khổ như ngươi mong muốn ,
Thì cũng không đáng để vui mừng .
Không gì là địa ngục nhân ,
Cho bằng cái sự ăn mừng khổ đau .

89. 

Đấy là một cái lưỡi câu ,
Vô minh phiền não buông câu hại người .
Nếu ai mắc phải mồi này ,
Đồng sôi địa ngục khó ngày thoát ra .

90. 

Sự vinh quang cùng lời ca tụng ,
Không khiến cho kẻ nhận bình an .
Không đem trường thọ, kiện khang ,
Không làm hết bệnh đa mang chút nào .

91. 

Nếu rõ biết thế nào thật lợi ,
Thì những lời khen ngợi ích chi .
Còn như muốn đỡ sầu bi ,
Chỉ cần uống rượu trau tria giải buồn .

92. 

Nếu vì muốn được nổi danh ,
tài sản, tính mạng mình mất luôn .
Thì khi chết được tiếng thơm ,
Còn ai ở đó mà buồn với vui .

93. 

Khi sụp đổ lâu đài trên cát ,
Kẻ ngu cùng trẻ nít khóc than .
Cũng như khi mất tiếng tăm ,
Tâm ta điên đảo giống tuồng trẻ ngu .

94. 

Âm thanh đã biết vô thường ,
Thì nghe khen ngợi cũng dường như không .
Nếu vì người ấy vui lòng ,
Trong khi khen ngợi, nên lòng ngươi vui .

95-96. 

Thế thì sao lại không vui ,
Nghe ai khen ngợi kẻ ngươi oán cừu .
Dù khen ngươi hoặc kẻ thù ,
Người khen vui vẻ ngươi nào liên can .

97-98. 

Khi tâm nghĩ “ Ta được ngợi khen ” ,
Thật không thích đáng để sinh vui mừng .
Ngợi khen làm tán loạn tâm ,
Phá nhiều thiện pháp, hết tâm chán lìa .

99. 

Nếu hiện tại có người bôi bác ,
Muốn phá cho tan nát danh ta .
Chính là người đã cứu ta ,
Khỏi sa địa ngục đường tà đấy thôi .

100.

Đã cầu giải thoát luân hồi ,
Thì không trói buộc bởi đời lợi danh .
Sao còn giận tức hữu tình ,
Những người cởi mở cho mình trói trăn .

101. 

 Khi ta đến một nơi nguy khốn ,
Mà bị người đóng cổng chận ngăn .
Ấy là Phật tổ gia ân ,
Sao còn giận tức kẻ ngăn can mình .

102. 

Nếu ngươi bảo kẻ thù tác hại ,
Trở ngại bao công đức của ngươi .
Hạnh tu nhẫn nhục cao vời ,
Sao không nhân đấy tu ngay một lần .

103. 

 Nếu ta có lắm ưu phiền ,
Nên không chịu nổi kẻ hiềm khích ta .
Ấy mình tự chướng hạnh tu ,
Bao nhân phước đức nhẫn là tối cao .

104. 

 Không tổn hại, nhẫn nào sinh khởi ,
Nhẫn kẻ thù công đức phát sinh .
Vậy thù địch chính ân nhân ,
Cho ta tu phước đâu ngăn ngại gì .

105. 

Khi cho mà gặp kẻ xin ,
Thì sao gọi đấy chướng duyên cho mình .
Cũng vô lý như bảo rằng ,
Giới sư trở ngại cho mình xuất gia .

106. 

Thế gian đầy dẫy người xin ,
Cho ta bố thí gieo duyên phước lành .
Nhưng thù nghịch lại hiếm khan ,
Ta không sinh sự, ai màng hại ta .

107. 

 Thù nghịch cũng như là báu vật ,
Ta chẳng tìm mà được đến tay .
Giúp ta giác ngộ là đây ,
Hãy nên ưa mến kẻ hay hại mình .

108. 

Muốn tu nhẫn nhục cho thành ,
Kẻ thù hợp tác với mình mới xong .
Vậy bao phước đức thành công ,
Hãy nên phụng hiến kẻ từng hại ta .

109. 

Nếu bảo “ Kẻ thù đâu muốn giúp ,
Cho ta thành quả phúc thanh cao ” .
Vậy thì thánh pháp cao siêu ,
Cũng đâu muốn giúp nương theo tu hành .

110. 

 Nếu bảo : “ Thù chỉ chuyên tác hại ,
Đâu muốn gì ích lợi cho tôi ” .
Hại kèm thiện ý cứu đời ,
Thì như y sĩ, đâu thời nhẫn kham .

111. 

Nhờ một kẻ sân si tột độ ,
Nhẫn nhục thành kiên cố nơi ta .
Kẻ thù nhân tốt cho ta ,
Nên cung dưỡng họ như là Pháp thân .

112. 

Đức Mâu ni có dạy rằng ,
Chúng sinh với Phật cũng ngang phước điền .
Muốn thành lục độ vô biên ,
Hãy gieo giống phước lên trên ruộng này .

113. 

Kể bao đối tượng ta nương ,
Để tu chứng đạo , chúng sinh Phật đồng. .
Chỉ tôn Phật chẳng chúng sinh ,
Là lời chẳng có ở trong kinh nào .

114. 

Xét trên trí đức cao sâu ,
Dĩ nhiên Phật, chúng sinh nào giống nhau .
Chúng sinh giúp chứng đạo mầu ,
Nên đồng với Phật, ấy do quả lành .

115-116. 

Cúng dường tất cả chúng sinh ,
Với tâm từ mẫn, vô biên phước tồn .
Vì là nhân của quý tôn ,
Cũng như kính Phật Thế tôn vô lường .

117. 

Hằng sa công đức nan lương ,
Đồng quy nơi một kim thân Phật ngài .
Một công đức nhỏ trong đây ,
Đủ cho ba cõi quay về cúng dâng .

118. 

Nhờ chúng sinh Phật thành chính đạo ,
Nên hữu tình có tạo phần công .
Vì hai đức ấy tương đương ,
Cho nên thực đáng cúng dường chúng sinh .

119. 

Như lai đấng nói lời chân ,
Ban vui tất cả thiết thân hữu tình .
Cách nào báo Phật thâm ân ,
Cho bằng giúp chúng sinh hằng an vui .

120. 

Phật từng xả thân vào hỏa ngục ,
Cứu chúng sinh lăn lóc tam đồ .
Nhớ ân đức Phật sâu xa ,
Con nguyền tu hạnh lợi tha báo đền .

121. 

Phật xưa không tiếc thân mình ,
Đem cho tất cả hữu tình an vui .
Ngu si kiêu mạn là tôi ,
Nếu không làm kẻ tôi đòi chúng sinh .

122. 

Phật vui khi chúng sinh an ,
Chúng sinh tổn hại Phật tan nát lòng .
Hữu tình sướng, Phật an tâm ,
Làm cho chúng khổ tổn thương Phật ngài .

123. 

Như thân thể quấn trong lửa rực ,
Dù ai cho ngũ dục không màng .
Phật đà không thể hân hoan ,
Nếu ta tổn hại chúng sinh con Ngài .

124-125. 

Khi xưa con hại hữu tình ,
Khiến đau lòng Phật, nay xin sám chừa .
Từ nay con nguyện dứt trừ ,
Dù ai chà đạp xin thề nhẫn kham .

126. 

Phật với tâm đại bi vô ngại ,
Trong hữu tình thấy tánh Như lai .
Sao không kính trọng tánh này ,
Ở trong tất cả muôn loài chúng sinh .

127. 

Hãy làm cho chúng sinh vui ,
Thì ta sẽ khiến Như lai vui lòng .
Lại còn lợi lạc bản thân ,
Bao nhiêu đau khổ xóa tan trên đời .

128. 

Ví như có kẻ làm quan lớn ,
Hại dân lành, tán tận lương tâm .
Nhưng người dũng sĩ khôn ngoan ,
Dù dư sức cũng chẳng ham báo thù .

129. 

Vì quan ấy chẳng đơn cô ,
Sau ông còn có ô dù lớn lao : .
Phật đà bi mẫn gồm thâu ,
Và bao ngục tốt, lẽ nào coi khinh .

130-131. 

Hãy làm cho chúng sinh hoan hỉ ,
Như bề tôi phụng thị ác vương .
Ta không đọa bởi vua sân ,
Mà sa địa ngục nếu sân hữu tình .

132. 

Và dù bạo chúa hân hoan ,
Cũng không thể biếu niết bàn cho ta .
Quả do đức tính nhân hòa ,
Ban vui cứu khổ mọi nhà chúng sinh .

133. 

Kết quả làm hữu tình vui sướng ,
Là đời này được hưởng vinh quang .
Đời sau thoát khỏi khổ nàn ,
Hãy luôn ghi nhớ lời vàng chớ quên .

134. 

Trong vòng sinh tử liên miên ,
Sống lâu vô bệnh dung nhan tuyệt trần .
Tiếng thơm nhờ đức vô sân ,
Và bao hạnh phúc sánh bằng Luân vương.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11641)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11967)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11120)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11354)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12072)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12567)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10772)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17992)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11731)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9957)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10179)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12356)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15352)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11249)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14336)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12115)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15375)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12008)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12417)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11191)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12093)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10622)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12563)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13177)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14848)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12697)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16583)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19675)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13114)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12675)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12273)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11866)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13534)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11961)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11852)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11644)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12774)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14526)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12623)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13631)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12909)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9881)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18021)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11172)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9086)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12185)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13059)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10316)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12201)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15322)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16613)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12227)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11490)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14277)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19711)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14158)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24616)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10695)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant