Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 21 Như Lai Thần Lực

25 Tháng Năm 201000:00(Xem: 8017)
Phẩm 21 Như Lai Thần Lực

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
GIẢNG GIẢI

Hoà thượng Thích Thanh Từ
Thiền Viện Chân Không

 

PHẨM 21 NHƯ LAI THẦN LỰC


Như Lai Thần Lực là sức thần của Như Lai. Đây có hai ý. Ý thứ nhất là khi Phật thành đạo có đủ thần thông diệu dụng, nên việc làm của Ngài vượt hẳn sức của người thường, vì vậy người đời không thể biết hết được, nên gọi là thần lực của Như Lai. Ý thứ hai, Như Lai là chỉ Tri kiến Phật có sẵn nơi mỗi chúng sanh. Nếu ai biết quay lại sống với Tri kiến Phật nơi mình, thì sẽ được diệu dụng không thể nghĩ bàn, nên gọi đó là Như Lai Thần Lực.

CHÁNH VĂN:

1.- Lúc bấy giờ, các vị đại Bồ-tát đông như số vi trần trong nghìn thế giới từ dưới đất vọt lên đó, đều ở trước đức Phật một lòng chấp tay, chiêm ngưỡng dung nhan của Phật mà bạch cùng Phật rằng: "Thế Tôn! Sau khi Phật diệt độ, ở nơi cõi nước của đức Thế Tôn phân thân diệt độ, chúng con sẽ rộng nói kinh này. Vì sao? Chúng con cũng tự muốn được pháp lớn thanh tịnh này để thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép mà cúng dường đó."

GIẢNG:

Đến đây, chư Bồ-tát từ dưới đất vọt lên vô số, đều chấp tay bạch Phật rằng sau khi Phật diệt độ, thì ở các cõi nước của Phật phân thân giáo hóa, lúc đó các ngài sẽ tới giáo hóa bằng kinh Pháp Hoa. Chư Bồ-tát từ dưới đất vọt lên, biểu trưng ý nghĩa Tri kiến Phật hiển hiện, khi vô minh phiền não đã sạch. Tri kiến PhậtPháp thân trùm khắp không giới hạn. Nên nói sau khi các Phật phân thân diệt độ, các Bồ-tát sẽ đi khắp nơi nói kinh Pháp Hoa để giáo hóa. Như vậy Báo thân hay Hóa thân của chư Phật ở đâu thì Pháp thân trùm khắp ở đó, không thiếu không vắng.

CHÁNH VĂN:

2.- Lúc đó, Thế Tôn ở trước ngài Văn-thù-sư-lợi v.v... vô lượng trăm nghìn muôn ức vị đại Bồ-tát cựu trụ ở nơi cõi Ta-bà và các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhân cùng phi nhân v.v..., trước tất cả chúng, hiện sức thần thông lớn bày tướng lưỡi rộng dài lên đến trời Phạm thế, tất cả lỗ chân lông phóng ra vô lượng vô số tia sáng đủ màu sắc, thảy đều khắp soi cả cõi nước trong mười phương. Các đức Phật ngồi trên tòa sư tử dưới cây báu cũng lại như thế: bày tướng lưỡi rộng dài phóng vô lượng tia sáng

Lúc đức Thích-ca Mâu-ni Phật và các đức Phật dưới cây báu hiện sức thần thông mãn trăm nghìn năm vậy sau mới huờn nhiếp tướng lưỡi, đồng thời tằng hắng cùng chung khảy móng tay, hai tiếng vang đó khắp đến cõi nước của các đức Phật trong mười phương, đất đều sáu điệu vang động, chúng sanh trong đó: trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhân cùng phi nhân v.v... nhờ sức thần của Phật đều thấy trong cõi Ta-bà này vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức các đức Phật ngồi trên tòa sư tử dưới những cây báu và thấy đức Thích-ca Mâu-ni Phật cùng đức Đa Bảo Như Lai, ngồi trên tòa sư tử trong tháp báu. Lại thấy vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức vị Bồ-tát và hàng tứ chúng cung kính vây quanh đức Thích-ca Mâu-ni Phật, đã thấy thế rồi đều rất vui mừng được chưa từng có.

Tức thời hàng chư thiên ở giữa hư không lớn tiếng xướng rằng: "Khỏi đây vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức vô số thế giới có nước tên Ta-bà, trong đó có Phật hiệu Thích-ca Mâu-ni hiện nay vì các đại Bồ-tát nói kinh Đại thừa tên 'Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm', các ông phải thâm tâm tùy hỉ, cũng nên lễ bái cúng dường đức Thích-ca Mâu-ni Phật."

Các chúng sanh đó nghe tiếng nói giữa hư không rồi, chấp tay xoay về cõiTa-bà nói thế này: "Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật, Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật." Dùng các món hoa hương, chuỗi ngọc, phan lọng và các đồ trang nghiêm nơi thân, những vật tốt bằng trân báu, đều đồng vói rải vào cõi Ta-bà.

Các vật rải đó từ mười phương đến thí như mây nhóm, biến thành màn báu trùm khắp trên các đức Phật ở trong đây. Bấy giờ mười phương cõi nước thông đạt không ngại như một cõi Phật.

GIẢNG:

Đoạn này Phật hiện thần thông. Ngài hiện thần thông sao không biến hóa bay đi, hay biến thân nhỏ thành thân lớn... mà lại hiện thần thông bằng cách le lưỡi dài rộng cho đến cõi trời Phạm thiên, rồi trong mỗi lỗ chân lông phóng hào quang sáng đủ màu sắc? Hiện tướng ấy biểu trưng ý nghĩa gì?

Nghĩa thứ nhất theo kinh A-hàm, người mà ba đời không nói dối, thì tướng lưỡi dài, le ra tới mí tóc. Tướng lưỡi Phật dài đến cõi trời Phạm thiên, chứng tỏ Phật vô số kiếp tu hạnh Bồ-tát cho tới khi thành Phật chưa từng nói dối. Lời Phật nói là lời nói chân thật, trải qua ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai không thay đổi. Ví dụ Phật nói: Các pháp hữu vi đều là vô thường, không cố định.

Nghĩa thứ hai tiêu biểu lời nói của Phật là lời khéo léo mầu nhiệm không thể nghĩ bàn, do diệu dụng của thiệt căn thanh tịnh mà có.

Trong sáu căn, ba căn có công đức viên mãnnhĩ căn, thiệt căný căn. Vì vậy mà chư Bồ-tát và tất cả người tu, đều chọn ý căn, nhĩ căn để tu và khi giáo hóa thì dùng thiệt căn để tuyên dương chánh pháp. Mà "chánh pháp" được tuyên dương trong kinh Pháp HoaTri kiến Phật, trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, không bị giới hạn ở một nơi nào. Nên tuyên dương pháp đó, cái lưỡi cũng rộng dài không thể nghĩ bàn, nếu lưỡi nhỏ có giới hạn thì đâu nói được pháp lớn.

Tướng tất cả lỗ chân lông Phật phóng ra vô lượng vô số tia sáng, soi khắp cả mười phương, biểu trưng ý nghĩa gì? Như trước đã nói, người thọ trì kinh Pháp Hoa, là trở về sống với Tri kiến Phật thanh tịnh sáng suốt có sẵn nơi mình. Bởi hằng sống với Tri kiến Phật nơi mình, tức nhiên toàn thân đều thanh tịnh sáng suốt, nên có khả năng phóng ra ánh sáng. Ánh sáng này thanh tịnh, nên chiếu diệu khắp cả mười phương, không có giới hạn ở một khu vực nào, không riêng ở một người nào, và ai ai cũng có. Nếu khéo tu, thì ánh sáng ấy chiếu soi cùng khắp, như chư Phật không thua không kém.

Lại một hiện tượng lạ nữa là, sau khi thâu nhiếp thần thông trở lại bình thường, Phật tằng hắng và khảy móng tay. Hai tiếng ấy vang khắp mười phương quốc độ, chúng sanh trong ấy nương sức thần của Phật, thấy ở cõi Ta-bà Phật đang nói pháp và có Phật Đa Bảo ngồi trên tòa sư tử chứng minh. Hình ảnh ấy biểu trưng ý nghĩa gì? Nếu không tu học theo Thiền tông thì điều này chúng ta khó mà hiểu được. Trong Thiền sử Trung Hoa, mỗi khi có Thiền tăng đến hỏi đạo, thì Tổ Lâm Tế không đáp bằng lời, mà chỉ đánh hoặ�c hét. Vậy cái đánh hoặc hét có tác dụng gì đối với Thiền tăng? Tiếng hét chỉ là tiếng hét, cái đánh chỉ là cái đánh. Thiền tăng nhân nghe tiếng hét, hoặc bị đánh, tỉnh ngộ, nhận ra Tánh giác nơi mình. Thiền tông gọi là kiến tánh hay ngộ đạo. Ngài Hương Nghiêm nghe tiếng viên gạch chạm vào cây tre, liền ngộ đạo, trường hợp này khác nào tiếng khảy móng tay ở đây! Thông thường ngôn ngữ đều phát xuất từ ý niệm phân biệt đối đãi, phàm ý niệm đối đãi không diễn đạt được chỗ cứu kính cùng tột. Vì vậy, khi muốn chỉ cái cứu kính tột cùng thì các Thiền sư hoặc hét, hoặc đánh, hoặc hư hư... Cũng vậy, ở đây Phật tằng hắng, hay khảy móng tay, cốt để cho chúng sanh thâm nhập cái cứu kính cùng tột đó, chớ không phải gây tiếng động để cho suy nghĩ. Vì cái cứu kính cùng tột không hình tướng, không giới hạn, nên nói trùm khắp mười phương, ở đây động thì tất cả nơi đều động, khiến cho mọi chúng sanh nhận tiếng động đó, mà hướng về để nhận ra cái cứu kính chân thật.

Khi Phật hiện các tướng trên, thì chư thiên báo cho Bồ-tát và chúng Tỳ-kheo biết là hiện tướng của Phật Thích-ca đang nói pháp ở cõi Ta-bà. Nên các vị hướng về Ngài tùy hỉ và niệm "Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật", đồng thời vói tay rải hoa hương, trân bảo cúng dường Phật. Lúc bấy giờ mười phương cõi nước thông đạt không ngại như một cõi Phật. Tới đây chúng ta thấy lý kinh quá rõ ràng, là khi thể nhập được Tri kiến Phật thì mười phương đều thông đồng, không có trong không có ngoài, không trên không dưới. Vì không trong không ngoài, không trên không dưới, trùm khắp tất cả, nơi này thanh tịnh thì nơi khác cũng thanh tịnh, ở đây không chướng ngại thì nơi khác cũng không chướng ngại. Nên nói mười phương tức một, một tức mười phương, thông đồng, không riêng không khác.

CHÁNH VĂN:

4.- Khi đó, Phật bảo đại chúng bậc thượng hạnh Bồ-tát thảy: "Thần lực của các đức Phật vô lượng vô biên bất khả tư nghì như thế; nếu ta dùng thần lực đó trong vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức vô số kiếp, vì để chúc lụy mà nói công đức của kinh này vẫn chẳng hết được.

Nói tóm đó, tất cả pháp của Như Lai có, tất cả thần lực tự tại của Như Lai, tất cả tạng bí yếu của Như Lai, tất cả việc rất sâu của Như Lai đều tuyên bày rõ nói trong kinh này, cho nên các ông sau khi Như Lai diệt độ, phải một lòng thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép, đúng như lời nóitu hành.

Cõi nước chỗ nào nếu có người thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép, đúng như lời tu hành, hoặc là chỗ có quyển kinh, hoặc trong vườn, hoặc trong rừng, hoặc dưới cây, hoặc tăng phường, hoặc nhà bạch y, hoặc ở điện đường, hoặc núi hang đồng trống, trong đó đều nên dựng tháp cúng dường

Vì sao? Phải biết chỗ đó, chính là đạo tràng, các đức Phật ở đây mà được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, các đức Phật ở đây mà chuyển pháp luân, các đức Phật ở đây mà nhập Niết-bàn."

Lúc đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

5.- Các Phật, đấng cứu thế

Trụ trong thần thông lớn

Vì vui đẹp chúng sanh 

Hiện vô lượng thần lực:

Tướng lưỡi đến Phạm thiên

Thân phóng vô số quang

Vì người cầu Phật đạo

Hiện việc ít có này.

Tiếng tằng hắng của Phật 

Cùng tiếng khảy móng tay

Khắp vang mười phương cõi

Đất đều sáu món động.

Sau khi Phật diệt độ

Người trì được kinh này

Các Phật đều vui mừng

Hiện vô lượng thần lực.

chúc lụy kinh này

Khen ngợi người thọ trì

Ở trong vô lượng kiếp

Vẫn còn chẳng hết được

Công đức của người đó

Vô biên vô cùng tận

Như mười phương hư không

Chẳng thể được ngằn mé.

Người trì được kinh này

Thời là đã thấy ta

Cũng thấy Phật Đa Bảo

Và các Phật phân thân.

Lại thấy ta ngày nay

Giáo hóa các Bồ-tát. 

Người trì được kinh này

Khiến ta và phân thân

Phật Đa Bảo diệt độ

Tất cả đều vui mừng.

Mười phương Phật hiện tại

Cùng quá khứ vị lai

Cũng thấy cũng cúng dường

Cũng khiến được vui mừng.

Các Phật ngồi đạo tràng

Pháp bí yếu đã được

Người trì đọc kinh này

Chẳng lâu cũng sẽ được.

Người trì được kinh này

Nơi nghĩa của các pháp 

Danh tự và lời lẽ

Ưa nói không cùng tận

Như gió trong hư không

Tất cả không chướng ngại.

Sau khi Như Lai diệt

Biết kinh của Phật nói 

Nhân duyênthứ đệ

Theo nghĩa nói như thật.

Như ánh sáng nhựt nguyệt

Hay trừ các tối tăm

Người đó đi trong đời

Hay dứt tối chúng sanh 

Dạy vô lượng Bồ-tát 

Rốt ráo trụ Nhứt thừa.

Cho nên người có trí

Nghe công đức lợi này

Sau khi ta diệt độ

Nên thọ trì kinh này

Người đó ở Phật đạo

Quyết định không có nghi.

 

GIẢNG:

Tới đây Phật qui kết, mọi thần lựcPhật hiện, tuy nói là bất khả tư nghì, song nếu đem vô số thần lực đó mà phó chúc và nói về công đức của kinh Pháp Hoa, vẫn không nói hết được. Vì kinh Pháp Hoa là cái thể bao hàm tất cả thần thông diệu dụng. Cho nên tu đừng có ham luyện thần thông, mà phải biết mìnhTri kiến Phật, quay về sống với Tri kiến Phật, đừng chạy theo ngoại cảnh, thì được thanh tịnh sáng suốt, phát ra vô số diệu dụng. Đừng kiếm tìm thần thông, vì thần thông là tướng hư dối không thật, nếu nhập được Thể thì mọi diệu dụng theo đó mà có, không nhập được Thể mà tập cái Dụng thì đó chỉ là ngọn ngành tạm thời, không phải cứu kính. Thế nên, người tu phải biết cái nào là gốc cái nào là ngọn. Nếu cứ lo luyện thần thôngbỏ quên cái Thể, đó là tu theo ngọn mất gốc. Người tu Phật chân chánh là thể nhập Bản thể, lấy Bản thể làm chánh, rồi mọi thần thông diệu dụng từ Bản thể mà phát ra. Thế nên cái dụng không thể diễn đạt Bản thể.

Sau nữa, Phật nói kinh Pháp Hoa ở đâu, thì ở đó nên dựng tháp cúng dường. Gần đây chúng ta thấy quí vị in một lần đến năm bảy ngàn bộ, như vậy làm sao dựng đủ tháp để thờ? Đó là chúng ta chỉ biết kinh Pháp Hoa bằng văn tự chớ không phải kinh Pháp Hoa vô tự chỉ cho Tri kiến Phật. Ở đâu mà có người ngộ được Tri kiến Phật thì chỗ đó có Phật hiện, chỗ đó đáng cho chúng sanh dựng tháp cúng dường. Vì vậy nên Phật nói kinh Pháp Hoa ở chỗ nào, thì chỗ đó là đạo tràng, là chỗ chư Phật thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, và chuyển pháp luân, nhập Niết-bàn cũng ở chỗ đó.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15758)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11056)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53615)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12957)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16510)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15386)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19150)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19920)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15546)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15339)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15140)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20316)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23920)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15467)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13018)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20074)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13268)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29011)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11686)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18269)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16639)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13226)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12794)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13236)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12964)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12857)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 12999)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13535)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11704)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14220)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17715)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22575)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13435)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14322)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105730)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14594)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19762)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38410)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15514)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34668)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 16048)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11317)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15642)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 14019)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12823)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13693)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12487)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19364)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 26998)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13105)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13459)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21581)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17954)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21865)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14197)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16056)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 16111)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19086)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24767)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant