Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

7- Quán Chúng Sanh

14 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7041)
7- Quán Chúng Sanh

BỒ TÁT CÓ BỆNH
BIÊN SOẠN VỀ KINH DUY MA CẬT

Thích Nữ Như Đức

Quán Chúng Sanh

1- Bồ-tát vào đời

Phẩm Quán Chúng Sanh tiếp theo sau phẩm Bất Tư Nghì, có nghĩa là Bồ-tát khi đã được pháp môn Giải thoát bất tư nghì, đã thành tựu khả năng giải thoát cho mình cùng tất cả khả năng biến hiện tự tại, không phải để thọ hưởng những phép lạ ấy, mà sử dụng chúng như phương tiện đi vào cuộc đời, tiếp cận với chúng sanh, làm người bạn giúp đỡ, người cần thiết cho chúng sanh. Bồ-tát phải từ bỏ cảnh giới Giải thoát mà ở trong cảnh giới khổ đau, ở với tất cả chúng sanh đang bị vướng bị kẹt, giúp họ đạt giải thoát như mình. Cảnh giới của chúng sanh đa dạng, nên Bồ-tát phải có con mắt và phương cách làm việc đúng đạo lý.

a- Mắt trí tuệ

Bồ-tát Văn-thù hỏi Duy-ma-cật:

- Bồ-tát quán chúng sanh như thế nào? Tức là hỏi về cách nhìn chúng sanh, không phải nhìn theo cái thấy thông thường, mà là quán, quán là nhìn có kèm theo trí tuệ nhận biết

Duy-ma-cật trả lời:

- Như nhà ảo thuật thấy các vật do mình biến hiện. Các vật biến hiện không có thật, không thể làm lầm chính người biến hóa ra nó. Như họa sĩ vẽ môït người đẹp, không thể nào đắm mến người đẹp trong tranh. Hết thảy các vật đều do tâm mình tạo, nên biết mà không kẹt.

Như người trí thấy trăng dưới nước, như bóng trong gương. Đó chỉ là sự phản chiếu của sự vật trên gương tâm. 

Như sóng nắng, như tiếng vang, như mây giữa trời, như bọt nước, như sấm chớp… Những thí dụ này nói lên tính cách mong manh không bền chắc, chỉ thoáng có trong phút chốc. Tuệ Trung Thượng Sĩ nói: “Phàm thánh trời người như điện chớp”, ngay cả hình tượng Thánh nhân cũng chỉ như bóng chớp ngang trời, ngắn ngủi, mau chóng. Không thể níu giữ, không thể toan tính một thứ gì lâu dài, không thể khóc than khi nhìn một bọt nước tan biến. Cứ biết rằng nó đang tan biến. Đó là cách nhìn của người khôn ngoan.

Như đại thứ năm, như ấm thứ sáu, như tình thức thứ bảy… như sắc tướng của cõi trời Vô sắc, như hạt giống cháy, như chứng Tu-đà-hoàn còn thân kiến… như dấu vết chim bay trên không, như con của thạch nữ… những chuyện kể trên là chuyện không thể có, không thể xảy ra. Quán sát chúng sanh như thế để thấy rõ bản chất không thật của chúng. Quán là nhìn về phía bản chất, không nhìn trên hình tướng. Ngoài những cách nói trên không có cách nào đúng hơn để diễn tả về chúng sanh.

b- Phương cách hoạt động

Chúng sanh tuy như vậy, vẫn hiện hữu, vẫn là hiện tượng không thể bỏ qua. Tuy chúng phù du nhưng lại nối tiếp không thể tính kể, Bồ-tát đối với chúng sanh nhìn như ảo mộng, phải thực hành các pháp từ, bi, hỷ, xả như thế nào? Duy-ma-cật giới thiệu phương pháp thực hiện lòng Từ chơn thật bằng cách vì chúng sanh nói pháp như trên, nghĩa là đánh thức cách nhìn của họ, chỉ ra bản chất thật để mọi người không lầm, đó là tình thương thật sự, vì thương mà đem đến sức giải thoát cho chúng sanh. Khi mọi người không lầm nữa thì tất cả đều tỉnh thức, đạt được giác ngộ là an vui tối thượng.

Thực hành lòng từ tịch diệt vì không chỗ sanh khởi, thực hành lòng từ không nóng giận vì chẳng có phiền não, thực hành lòng từ bình đẳngba đời đều như nhau, thực hành lòng từ không tranh cãi vì không chỗ khởi lên để tranh chấp… thực hành lòng từ kiên cốtâm không hủy hoại, thực hành lòng từ thanh tịnh vì các pháp tánh thanh tịnh, thực hành lòng từ vô biên vì như hư không… thực hành lòng từ của A-la-hán, của Bồ-tát, của Phật, tùy theo từng địa vị để phù hợp với căn cơ… cho đến thực hành lòng từ theo lục độ… tất cả đều đem đến cho chúng sanh sự vui vẻ an lạc, mà Bồ-tát vẫn đạt được pháp lạc. Có nghĩa là vì chúng sanh mà làm việc, phần mình không bị thiếu tính chất Giác ngộ, vẫn đầy đủ phẩm hạnh và các đức tính cao đẹp. Như thế gọi là Bồ-tát vì chúng sanh vào đời làm việc, không bị chúng sanh mê hoặc.

Văn-thù-sư-lợi lại hỏi:

- Thế nào gọi là Bi?

Duy-ma-cật đáp:

- Bồ-tát có làm bao nhiêu công đức đều cho chúng sanh đồng hưởng.

- Thế nào là Hỷ ?

- Bồ-tát có những việc nhiêu ích đều hoan hỷ không hối hận.

- Thế nào là Xả?

- Bồ-tát có những phước đức đều không hy vọng

Ba đặc tính sau này nói lên sự buông bỏ của Bồ-tát, dù làm được những lợi ích lớn cho chúng sanh mà coi như đó là việc chung, không giữ riêng cho mình, không ân hận vì mình đã bị làm quá sức, bị hy sinh, không mong sự đền trả của người chịu ơn. Đó là vì Bồ-tát đã thâm nhập tính cách chúng sanh như huyễn, mình như huyễn, tất cả không thật thì có gì trong ấy mà mong cầu. Không mong cầu nhưng vẫn tích cực làm việc và chia sẻ hết tất cả công đức cho chúng sanh cùng hưởng.

c- Căn bản của các pháp

Đầy đủ bốn đức tính Từ, Bi, Hỷ, Xả là có thể làm việc với chúng sanh. Chúng sanh thì ở trong sanh tử, Bồ-tát cũng phải ở luôn trong sanh tử

Văn-thù-sư-lợi hỏi tiếp: 

- Sanh tử đáng sợ, Bồ-tát phải nương nơi đâu?.

 Duy-ma-cật đáp: 

- Bồ-tát ở trong chỗ sanh tử đáng sợ phải nương vào sức Như Lai công đức

Bồ-tát dù tình nguyện vào sanh tử, cũng phải có sức vững vàng, sức đó gọi là công đức Như Lai, sức mạnh được cung cấp từ các việc làm tốt đẹp tạo nên ảnh hưởng phước lực lớn.

Hỏi tiếp: 

- Muốn nương sức Như Lai công đức phải trụ vào đâu?

- Phải trụ vào chỗ độ thoát tất cả chúng sanh

Dường như ở đây có một cái vòng khép kín, vì muốn độ chúng sanh thì phải ở trong sanh tử, muốn ở trong sanh tử vững vàng phải nhờ sức của Phật, mà sức của Phật bắt nguồn từ việc độ chúng sanh. Có nghĩa là không phải nương tựa ở đâu xa, ở vật nào khác mà phải lập cước trên bản vị độ sanh.

Những câu hỏi - đáp tiếp theo dẫn dắt chúng ta đi đến cuối đường ngôn luận. Muốn độ chúng sanh phải trừ dẹp điều gì? Phải trừ dẹp phiền não của mình. Muốn trừ dẹp phiền não phải làm gì? Phải hành Chánh niệm. Hành chánh niệm tức là vô niệm, là hành pháp bất sanh bất diệt, chỗ không sanh không diệt đó được gọi là pháp Thiện, nghĩa là chỗ thiện tột cùng không có sự sanh khởi, khi không có sanh khởi cũng không có gì diệt mất, chỉ có một tâm y nhiên từ trước đến giờ, đó là chỗ bất diệt. Trong Đàn Kinh, Lục Tổ dạy: “Đó là bản lai diện mục”. Cái xưa nay không từng khởi diệt là chỗ mình phải y theo đó thực hành Chánh niệm. Đi ngược lại thì khi có chánh niệm thì không có phiền não, không có phiền não gọi là độ thoát chúng sanh, hay là độ tất cả khổ ách sanh tử.

Hỏi tiếp về gốc của pháp thiệnbất thiện. Nghĩa là thiện và bất thiện bắt nguồn từ đâu, để đi đến chỗ pháp thiện không diệt, pháp thiện y nhiên một mực trước sau? Dẫn đầu từ thân, thân bắt nguồn từ dục tham, dục tham có ra từ các phân biệt hư dối, phân biệt hư dối sinh khởi từ vọng tưởng điên đảo, vọng tưởng điên đảo được thành lập từ “vô trụ”. Vô trụ lấy gì làm gốc? Vô trụ thì không có gốc (vô trụ tắc vô bổn). Không có một cái căn bản thứ nhất để làm chỗ sinh khởi vô trụ, vì bản chất vô trụ là không đứng ở đâu, không dựa vào đâu thì làm sao có được nền tảng chắc thật. Như thế vô trụ là điểm đầu tiên, cái then chốt sinh thành tất cả pháp (Tùng vô trụ bổn, lập nhất thiết pháp). Chúng ta tưởng như có một pháp thật, có một điểm khởi đầu chắc thật để tạo nên các pháp, và cũng từ các pháp đó mình vin vào để thành lập công đức, nhưng điểm khởi đầu này thì không tung tích, không có chỗ khởi thì các pháp cũng chỉ như ảnh hiện, chợt có chợt mất. Trở lại với cách quán chúng sanh ở đoạn đầu phẩm này, như huyễn sư nhìn vật huyễn, có công đức tạo ra cũng như trong mộng nói mộng, nhìn như thế là nhìn đúng chánh pháp.

2- Thanh văn học tập

Bồ-tát thấy các pháp như huyễn nên an nhiên. Thanh văn chưa thấy được gốc vô trụ của các pháp nên phải lần lượt học tập.

a- Năm dục như huyễn

Trong thất Duy-ma-cật có một thiên nữ tung hoa cúng dường hội chúng, hoa ấy đến các vị Bồ-tát đều rơi xuống, đến bên các vị Đại đệ tử đều dính vào. Các vị dùng hết thần lực để phủi, hoa cũng không rơi.

Các vị Thanh văn giữ giới nghiêm minh, hoa là tượng trưng vật phi pháp nên các Ngài rất sợ dính. Lúc ấy thiên nữ bèn hỏi ngài Xá-lợi-phất: Vì sao phủi hoa? Quả thật, các Ngài xem hoa là vật phi pháp, là tượng trưng vật chất thế gian, không phải là kinh pháp, nên không ưa gần gũi. Trong thất Duy-ma-cật vốn không có gì, nay thiên nữ và hoa chỉ là vật biến hiện, không phải thật pháp. Dùng hình thức nữ nhân đối đáp cũng là điều úy kị của các Ngài, đoạn kinh này dường như đẩy ngài Xá-lợi-phất vào chỗ phải thấy tất cả hiện tượng đang xảy ra đều như huyễn.

b- Giải thoát ở tất cả chỗ nơi

Sau khi nghe thiên nữ biện luận về tính cách của hoa, ngài Xá-lợi-phất hỏi, cô ở trong thất này bao lâu. Thiên nữ nói, bằng thời gian giải thoát của bậc trưởng lão kỳ túc. Thật ra giải thoát không có thời gian, cũng không có tướng mạo, nên đoạn kế tiếp thiên nữ luận rằng, ngôn thuyết văn tự cũng là tướng Giải thoát, tướng Giải thoát không có ở trong ở ngoài, tất cả tướng đều là tướng giải thoát. Nhìn ở khía cạnh rốt ráo không phân biệt thì chẳng có tướng nào là tướng ràng buộc, vì không thấy ràng buộc nên chẳng cần tìm giải thoát ở đâu. Cũng trong tinh thần này, khi Xá-lợi-phất hỏi thiên nữ chứng đắc được điều gì (một cách gài bẫy) thì thiên nữ lẹ làng đáp chỗ vô chứng vô đắc.

c- Tám việc chưa từng có

 Xá-lợi-phất hỏi thiên nữ cầu chứng thừa nào trong tam thừa? Thiên nữ trả lời tùy phương tiện giáo hóathực hiện Thanh văn thừa hay Duyên giác thừa. Nhưng mục đích chính là Phật thừa, như người vào thất này chỉ thích mùi hương công đức của Phật, không thích hương công đức của Thanh vănBích chi Phật.

Thiên nữ kể tiếp về tám việc đặc biệt trong thất Duy-ma-cật: 

1- Thất này thường có ánh sáng sắc vàng chiếu soi, không cần ánh sáng mặt trời mặt trăng.

2- Người vào thất này không bị các cấu uế quấy nhiễu.

3- Thất này được các vị trời Đế thích, Phạm vương… các vị Bồ-tát phương khác đến hội họp không ngớt.

4- Thất này thường nói sáu ba-la-mật, pháp bất thối chuyển

5- Thất này thường trỗi nhạc bậc nhất, phát ra vô lượng âm thanh pháp.

6- Trong thất có bốn kho tàng lớn cứu giúp khắp các kẻ nghèo thiếu.

7- Các đức Phật như Phật Thích-ca Mâu-ni, Phật A-di-đà…, mỗi khi Duy-ma-cật khởi niệm liền hiện đến thuyết pháp.

8- Tất cả cung điện trang nghiêm của chư thiên, các cõi tịnh độ của chư Phật đều hiện trong thất này.

d- Thân tướng như huyễn

Thất của Duy-ma-cật tượng trưng cho Như Lai tạng nên có các việc đặc biệt như thế, không phải là điều khó hiểu. Nhưng thiên nữ ở trong đây, tại sao không chuyển thân nữ, ý ngài Xá-lợi-phất cho là đã ở trong cái nhà vi diệu này mà còn mang thân nữ là dở lắm.

Đến đây là một màn hí lộng, thiên nữ nói tướng huyễn hóa không nhất định, và dùng thần lực khiến ngài Xá-lợi-phất thành thân nữ, để thấy thân tướng nữ nam chỉ như biến hóa, và tất cả tướng nữ nhân đều chẳng phải là tướng nữ thật. Khi ngài Xá-lợi-phất trở lại tướng cũ thì tướng nữ vừa rồi ở đâu? Cũng chẳng ở đâu. Thế nên biết tất cả pháp không ở đâu mà có mặt ở tất cả chỗ (Nhất thiết chư pháp vô tại vô bất tại), đó là ý nghĩa của pháp vô trụ đã nói ở trên.

e- Quả chứng như huyễn

Xá-lợi-phất hỏi thiên nữ

- Bao lâu sẽ đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?

Thiên nữ đáp: 

- Như Xá-lợi-phất trở lại thành phàm phu, tôi sẽ chứng quả.

Điều này không thể xảy ra, thì thiên nữ cũng không chứng quả. Vì sao? Vì Bồ-đề, Giác ngộ không có chỗ trụ nên không chỗ đắc. Nếu cho là có chứng đắc là trái ngược với tinh thần vô trụ ở trên. Tuy thế, chư Phật vẫn từng đắc quả trong tinh thần Vô sở đắc.

Thiên nữ này vốn đã là vị Bồ-tát có thần thông du hý, mượn chuyện vấn đáp với ngài Xá-lợi-phất để giáo hóa, để nâng đỡ tinh thần của hàng Thanh văn thấu ý chí của Đại thừa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11641)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11967)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11120)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11354)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12069)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12567)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10771)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17991)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11731)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9954)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10174)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12355)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15350)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11248)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14334)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12112)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15374)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12008)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12417)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11191)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12091)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10620)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12560)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13177)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14847)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12696)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16582)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19674)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13114)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12675)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12272)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11865)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13534)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11960)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11850)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11644)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12774)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14525)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12619)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13630)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12909)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9880)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18021)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11171)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9084)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12183)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13057)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10316)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12201)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15320)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16613)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12224)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11489)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14277)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19710)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14158)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24616)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10695)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant