Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

3- Đệ Tử

14 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 8097)
3- Đệ Tử

BỒ TÁT CÓ BỆNH
BIÊN SOẠN VỀ KINH DUY MA CẬT

Thích Nữ Như Đức

Đệ Tử

ĐẠI Ý TOÀN PHẨM

Điểm chính của phẩm này là các đệ tử lớn của Phật như tôn giả Xá-lợi-phất, tôn giả Ca-diếp… trình bày câu chuyện đối đáp giữa các vị và ông Duy-ma-cật. Phật sai các vị đến thăm bệnh trưởng giả, nhưng tất cả đều từ chối không kham vì hầu hết đã bị chính trưởng giả thuyết pháp chinh phục trong từng trường hợp riêng. Có phải trưởng giả Duy-ma-cật là người tài giỏi cao ngạo? Và hàng Thanh văn đệ tử Phật được xem như yếu kém?

Ở đây chúng ta nên gác qua ý niệm hơn thua khi đọc phẩm này, vì đó chỉ là suy nghĩ thường tình thế gian. Phật pháp có một ý nghĩa cao rộng siêu việt. Mượn lời trưởng giả Duy-ma-cật để bổ túc cho vấn đề được nêu ra hoàn thiện hơn, để khai mở một khía cạnh phong phú mà từ trước chúng ta chỉ quen nhìn một chiều. Đây là tính cách đả phá để thành lập. Hai bên bổ túc cho nhau, hay nói đúng hơn đem quan điểm Đại thừa để đẩy mạnh con đường Thanh văn đến chỗ hoàn thiện đầy đủ, để khai phóng cách nhìn, không bị gò bó trong một ước lệ nào cả. 

1- Tôn giả Xá-lợi-phất

Tôn giả đang ngồi yên trong rừng, ngồi yên có thể là đang tĩnh tọa, hay đang nhập định. Duy-ma-cật trình bày một quan niệm khác về ý nghĩa ngồi yên: Không cần ngồi, và không hẳn ngồi đã là yên. Đó là điểm mới mẻ tuy khó thực hiện. Ở trong ba cõi mà tâm ý không dính trong ba cõi, không ra khỏi Diệt định vẫn cử động oai nghi cũng được xem như nhập định…

Chú trọng về tâm mà không lệ thuộc vào thân, nghĩa là giữ tâm không hướng ra hay hướng vào để tâm yên đó là ngồi yên. Đối với các chỗ thấy nghe không bị động, không bị lay chuyển - xem như đã xong đã vững - nhưng vẫn tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo… Ngồi yên như thế là vượt qua hai bên, vượt cả động và tịnh, yên và không yên. Đó là ý của Duy-ma-cật hay là một ý khác của Đại thừa Phật giáo về tính ngồi yên.

2- Tôn giả Mục-kiền-liên

Ngài Mục-kiền-liên đang thuyết pháp cho cư sĩ, Duy-ma-cật đến biện biệt về ý nghĩa của chư pháp và cách nói pháp. Trước tiên nêu lên nguyên tắc “Phàm thuyết pháp nên như pháp mà thuyết”, nghĩa là nói pháp phải nói được chỗ pháp chân thật hay là tính tuyệt đối của pháp. Pháp lìa cả ngã, nhân chúng sanh, thọ mạng, pháp thường vắng lặng vì diệt các tướng, pháp lìa ngôn ngữ danh tự, pháp không hình tướng như hư không, pháp khôngtính cách sở hữu, vượt ra ngoài đối đãi. Pháp như thế là pháp tánh, là bản tánh chân thật thường nhiên, như thế làm sao nói bàn? Không người nói không người nghe, nếu có nói thì cũng như người huyễn nói cho người huyễn nghe. Đây là chỗ Duy-ma-cật muốn nhấn mạnh chỗ sở đắc của ngài Mục-kiền-liên là thần thông, thần thông ví như trò ảo thuật, Ngài sử dụng ảo thuật thì chẳng có gì thiệt. Đề cập đến chân lý tột cùng thì làm sao có pháp để nói.

3- Tôn giả Đại Ca-diếp

Ngài Đại Ca-diếp đi khất thực, nhân đó bị Duy-ma-cật chê Ngài lòng từ bi không trùm khắp, còn bỏ nhà giàu mà xin nhà nghèo. Ông nói về pháp bình đẳngtính cách cao siêu của việc khất thực. Khất thựcxin ăn để nuôi mạng sống, nhưng phải là không ăn không thọ, xem thân này như xóm làng vô chủ, gặp sáu trần mà không dính mắc mà thấy được lý đạo, biết rõ các pháp vốn không sanh không diệt. Khi tâm không dính mắc, không hạn cuộc vào chánh tà, bình đẳng không hai thì nên ăn, nên đi khất thực.

Chúng ta nghĩ ăn là việc bình thường, nhưng Duy-ma-cật nhân đó đưa việc ăn uống lên một phương diện tuyệt đối, nhắc đến một tính cách tha thiết “thấy các pháp bình đẳng”. Các pháp bình đẳng không hai tướng là chủ đích mà Duy-ma-cật dùng để biện luận với các hàng đệ tử Thanh văn của Phật.

4- Tôn giả Tu-bồ-đề

Ngài Ca-diếp chuyên đến nhà nghèo khất thực, bị Duy-ma-cật chận lại thuyết pháp. Đến phiên ngài Tu-bồ-đề, đến ngay nhà trưởng giả khất thực cũng được nghe nói về sự bình đẳng. Bình đẳng đối với tham sân si không lấy không bỏ, bình đẳng giữa vô minh và giải thoát… bình đẳng giữa đắc và không đắc, giữa thánh nhânphàm phu. Nếu được đến chỗ này nhìn tất cả với con mắt nhẹ nhàng. Tiến thêm một bậc nữa, nếâu tôn giả không theo Phật pháp mà theo ngoại đạo, tôn họ làm thầy, họ đọa tôn giả cũng đọa, Ngài luôn ở trong phiền não mà lìa pháp thanh tịnh. Người cúng dường tôn giả không gặp phước mà đọa ba đường dữ… Chỗ này mới thật là mang nhiên, ai lại có thể chọn một phương pháp trái nghịch như thế?

Tôn giả Tu-bồ-đề còn sợ không dám cầm bát cơm do Duy-ma-cật cúng. Nhưng trưởng giả đã nhắc: “Tất cả những điều tôi nói như người huyễn thuật nói, người biến hóa nói đâu có gì thật”. Tôn giả Tu-bồ-đề được Giải không đệ nhất mà đến chỗ này còn phải lúng túng. Thật ra đó là một cách trình bày về Tánh Không đệ nhất nghĩa.

5- Tôn giả Phú-lâu-na

Tôn giả được biệt danh là Thuyết pháp đệ nhất, khi thuyết pháp cho các tân Tỳ-kheo đã bị Duy-ma-cật nhắc nhở – phải quán sát tâm ý căn cơ người nghe, đừng đem pháp Tiểu thừa chỉ dạy giống như đem biển cả nhét vào dấu chân trâu… Và trưởng giả đã làm cho các Tỳ-kheo nhớ lại cội gốc căn lành và phát tâm Bồ-đề. Điều này hàng Thanh văn làm không được nên Phú-lâu-na tán thán.

6- Tôn giả Ca-chiên-diên

Tôn giả được gọi là Luận nghị đệ nhất, tức là người bàn giải về những lời Phật dạy rất thấu đáo, có thể giúp kẻ sơ cơ hiểu rõ hơn. Như thế, một hôm tôn giả diễn giải ý nghĩa của vô thường, khổ, không, vô ngã, tịch diệt thì gặp Duy-ma-cật đóng góp ý kiến.

Theo ý Duy-ma-cật, tôn giả chưa diễn đạt được thật tướng các pháp, nghĩa là chưa diễn đạt toàn thể mà chỉ nói được một phần thôi. Lật ngược lại ý nghĩa của vô thườngbất sanh bất diệt, sanh diệt chỉ là tướng vô thường nhưng pháp thể không hề sanh diệt, diễn bày được như thế mới thấu tận nguồn. Các ý nghĩa khác cũng thế. Các Tỳ-kheo nghe Duy-ma-cật nói xong đều được tâm giải thoát.

7- Tôn giả A-na-luật

Khi bàn về Thiên nhãn, tôn giả bị Duy-ma-cật vấn nạn là chỗ thấy của Thiên nhãnhình tướng tạo tác. Hình tướng tạo tác là do sự vận dụng của nhãn căn, vin theo tướng trạng sự vật thì có cái thấy bị sanh diệt. Còn nếu không phải tướng tạo tác thì nó thuộc phần vô vi, không hình tướng thì thấy bằng gì?

Chỉ có đức Phật mới thực hiện cái thấy chân thật không do tạo tác và chẳng tạo tác.

8- Tôn giả Ưu-ba-ly

Được mệnh danh là Trì luật đệ nhất. Tôn giả đang giải quyết vấn đề phạm tội của hai thầy Tỳ-kheo. Duy-ma-cật bảo Ngài giải quyết đúng theo luật là làm tăng tội cho họ, làm họ bất an thêm. Vì bản chất của tội không thật, tùy tâm mà phát sanh, nếu tâm ô nhiễm thì đắc tội, nếu tâm thanh tịnh, vô tư thì không tội. Nhìn về phương diện tâm như thế thì tất cả chúng sanh đều có phần không cấu nhiễm nên tùy trường hợp để kết tội. Tất cả pháp đều biến thiên, đều trôi qua như mộng, đều là hình bóng phản chiếu, nhìn như thế vọng tưởng sanh chỗ nào? Không vọng tưởng thì tội không phát sanh, đó gọi là Trì luật đệ nhất.

9- Tôn giả La-hầu-la

La-hầu-la nói về lợi ích xuất gia cho các trưởng giả trẻ tuổi. Duy-ma-cật bảo nói như thế không đúng. Phải thấy chỗ không lợi, không công đức mới là pháp xuất gia vô vi. Còn thấy lợi, thấy công đức là chỗ xuất gia hạn hẹp.

Xuất gia là vượt ra khỏi mọi giới hạn biên tế, hay nói đúng hơn là không còn kẹt vào nơi chốn nào, đó là xuất gia chân thật. Theo ý Duy-ma-cật, xuất gia không phải là chỉ rời bỏ một nơi chốn, mà thật sự là vượt qua năm đường, ra khỏi bùn lầy dính mắc, không thấy có ngã sở, có thọ nhận. Đó là khéo vượt, là lìa lỗi. Xuất gia cũng gọi là phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Ý nghĩa xuất gia ở đây không phải trên hình thức mà nằm ở chỗ nội tâm viễn ly, dù cư sĩ tại gia cũng làm được. Đó là chủ ý của kinh Duy Ma Cật

10- Tôn giả A-nan

A-nan làm thị giả Phật, mang bình bát đi xin sữa về cho Phật để trị bệnh. Bị Duy-ma-cật phản đối

Thân Phật là thân kim cang, các ác đã dứt, các điều lành đều hội họp, làm sao có bệnh? Chuyển Luân Thánh Vương có chút ít phước còn không bệnh huống gì Phật?

Câu chuyện giữa tôn giả A-nan và Duy-ma-cật là vấn đề thắc mắc muôn đời. Phật có bệnh thật hay không? Những lời dạy về thân là nguồn khổ, gốc bệnh, không loại trừ một hữu tình nào. Điều này vẫn đúng.

Nhưng trên hết là cái nhìn về lý tánh tuyệt đối. Nếu thân Phật là pháp thân thì không còn hạn cuộc ở sanh già bệnh chết, không nằm trong vòng hữu vi. Thân như thế đã siêu việt mọi ức tưởng, bệnh hay không bệnh chỉ là một cái nhìn.

Kết thúc của phẩm này qua câu chuyện của mười vị đệ tử lớn của Phật, ta thấy ý Kinh muốn trình bày một vấn đề lớn: Dùng con mắt pháp tánh để đi suốt một vấn đề. Những lời vấn nạn có khả năng giúp chúng ta vượt khỏi vướng mắc về ngôn ngữ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11725)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12044)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11199)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11434)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12141)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12651)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10862)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18101)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11819)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 10042)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10245)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12454)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15453)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11315)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14422)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12214)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15503)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12095)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12495)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11289)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12169)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10702)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12627)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13270)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14977)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12792)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16677)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19776)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13213)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12769)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12369)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11966)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 11012)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13634)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 12046)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11938)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11732)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12857)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14633)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12711)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15770)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13726)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 13009)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9958)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18124)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11263)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9155)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12283)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13148)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10386)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12275)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15470)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16704)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12326)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11596)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14382)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19855)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14244)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24739)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10776)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant