Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 7 Tu Hành Tín Tâm

09 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 6426)
Chương 7 Tu Hành Tín Tâm

ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN
Bồ Tát Mã Minh
Chân Đế dịch ra Hán Văn - Cao Hữu Đính dịch ra Việt văn 

Chương 7

Tu Hành Tín Tâm

Đã nói xong phần giải thích, giờ đây nói phần tu hành tín tâm. Trong phần này, vì nương vào chúng sanh chưa vào nhóm Chánh Định, cho nên nói tu hành tín tâm.

Những tín tâm gì? Tu hành thế nào?

Nói ước lược thì Tín tâm có bốn món. Bốn món ấy là gì?

Một là lòng tin căn bản, tức thích niệm cái Chân Như.

Hai là tin Phật có vô lượng công đức, luôn luôn nhớ nghĩ, gần gũi, cúng dường cung kính, phát khởi căn lành, cầu mong được Nhất Thiết Trí.

Ba là tin Pháp có những lợi ích lớn, luôn luôn nhớ nghĩ tu theo các hạnh Ba la mật.

Bốn là tin Tăng tu hành chơn chánh, lợi mình lợi người, thường ưa gần gũi chúng Bồ Tát mà cầu học các hạnh tu như thật.

Tu hành có năm món thành tựu được bốn Tín Tâm ấy. Năm món là gì?

Một là môn Bố Thí.

Hai là môn Trì Giới.

Ba là môn Nhẫn Nhục.

Bốn là môn Tinh Tấn.

Năm là môn Chỉ Quán.

Thế nào là tu hành môn Bố Thí?

Nếu thấy bất cứ ai đến cầu xin, mình có tài vật gì thì tùy sức mà cho họ, để trừ bỏ lòng keo lẫn của mình mà lại khiến được kẻ kia hoan hỷ.

Nếu thấy người đang lo sợ vì bị ách nạn bức bách, thì tùy sức mình có thể cáng đáng mà ban vô úy cho họ.

Nếu có chúng sanh đến cầu học chánh pháp thì tùy theo chỗ hiểu biết của mình mà phương tiện nói cho họ nghe, không nên tham cầu danh lợi cung kính, chỉ nghĩ đến việc lợi mình lợi người, và hồi hướng công đức về quả giác ngộ.

Thế nào là tu hành môn Trì Giới?

Ấy là không giết hại, không trộm cắp, không dâm dật, không hai lưỡi, không ác miệng, không nói dối, không thêu dệt, xa lìa: tham lam ganh ghét, lường đảo gian dối, dua nịnh quanh co, giận dỗi và tà kiến. Nếu là người xuất gia thì phải chiết phục phiền não, còn cần xa lìa những nơi huyên náo, thường ở những nơi thanh vắng yên lặng mà tu tập lối sống thiểu dục tri túc và các hạnh đầu đàCho đến một lỗi nhỏ xíu, lòng cũng phải lo sợ, xấu hổ ăn năn, không được khinh thường giới cấm của Phật đã chế, phải giữ gìn đừng để bị tị hiềm chê trách, đừng để chúng sanh vọng khởi tội lỗi.

Thế nào là tu hành môn Nhẫn Nhục?

Ấy là nhịn chịu các khổ đau mà người khác gây ra cho mình, không ôm lòng thù hận.

Lại cũng nhịn chịu trước tám điều là: Được tiền, mất của, bị chưởi mắng, được tâng bốc, được khen, bị chê, sung sướng và khổ sở.

Thế nào là tu hành môn Tinh Tấn?

Ấy là đối với các việc lành, lòng không do dự lùi bước, ý chí kiêng cường, xa lìa khiếp nhược. Phải nhớ nghĩ rằng, từ quá khứ lâu xa đến giờ, mình đã luống chịu quá nhiều đau khổ, hết thân tâm này qua thân tâm khác, mà chẳng ích gì. Cho nên giờ đây phải siêng tu các công đức lợi mình lợi người, để chóng thoát khổ.

Lại nữa, nếu có ai tuy nay tu hành tín tâm, nhưng vì đời trước từng gây ra quá nhiều tội ác nghiệp chướng cho nên đời này bị tà ma ác quỷ não hại, hoặc bị công kia việc nọ của thế gian lôi cuốn buộc ràng, hoặc bị ốm đau bịnh tật bức não, hoặc bị vô số chướng ngại khác khiến phải chịu khổ đau tương tự như thế.

Vì vậy cho nên cần phải dõng mãnh siêng năng, ngày đêm sáu thời, lễ bái chư Phật, thành tâm sám hối, khuyến thỉnh Chư Phật thuyết pháp, tùy hỷ công đứchồi hướng công đức về nơi quả Giác, thường xuyên như vậy, không ngưng không bỏ, thời nghiệp chướng mới tiêu trừ và căn lành mới tăng trưởng.

Thế nào là tu hành môn Chỉ Quán ?

Chỉ nghĩa là ngưng nghỉ tất cả các tướng Cảnh giới, vì tùy thuận nghĩa quán Xa-ma-tha.

Quán nghĩa là phân biệt tướng Nhân Duyên sanh diệt, vì tùy thuận nghĩa quán Tỳ-bát xá na.

Thế nào là tùy thuận?

Ấy là dựa vào cả hai nghĩadần dần tu tập, không rời bỏ nhau, cho nên cả hai cùng có mặt.

Nếu là tu Chỉ thì phải ở nơi thanh vắng, ngồi thẳng lưng, suy tư đứng đắn. Không nương hơi thở. Không nương hình sắc. Không nương hư không. Không nương đất nước lửa gió. Cho đến không nương thấy nghe hay biết. Tất cả các suy tư đều phải bị chánh niệm quét sạch. Ngay cả cái ý tưởng quét sạch cũng bị quét luôn. Vì tất cả các pháp, bản lai không có tướng, niệm niệm chẳng sanh, niệm niệm chẳng diệt. Cũng lại không được niệm cảnh giới ở ngoài tâm, rồi sau mới lấy Tâm trừ Tâm. Nếu Tâm rong ruổi lăng xăng thì phải lập tức thu về, an trú trong chánh niệm. Nói chánh niệm thì phải biết là chỉ có tâm, không có cảnh giới bên ngoài. Ngay Tâm ấy cũng lại không có tướng riêng, không thể đắc cái Tâm ấy trong từng niệm một.

Sau khi ngồi dậy, nếu có làm gì cần phải đi lại tới lui, thì bất cứ lúc nào cũng phải thường niệm phương tiệntùy thuận quán sát, tập như vậy lâu ngày đến mức thuần thục, thì tâm mình được an trú. Vì tâm được an trú cho nên dần dần trở nên mạnh mẽ sắc bén, mà tùy thuận vào được Chân Như Tam Muội, dẹp sầu phiền não, tăng trưởng tín tâm và mau thành bất thối. Chỉ trừ những kẻ vì nghiệp chướngphạm tội nặng như nghi hoặc, không tin, phỉ báng, hoặc ngã mạn và giãi đãi, thì không thể vào được.

Lại nữa, nương vào tam muội ấy thời biết được tướng nhất của pháp giới. Nghĩa là biết pháp thân của tất cả Chư Phật cùng với sanh thân của chúng sanhbình đẳng không hai. Đó gọi là Nhất Hạnh Tam Muội. Nên biết rằng Chân Như là gốc của tam muội. Ai tu hành thuận theo Chân Như thì dần dần phát sanh vô lượng tam muội.

Nếu chúng sanh nào không đủ căn lành, thì bị ác ma, ngoại đạo quỷ thần mê hoặc não loạn. Đang ngồi, bị chúng hiện hình khủng bố. Hoặc hiện hình trai xinh, gái đẹp. Phải niệm các cảnh giới ấy đều là duy tâm, thì chúng sẽ tự tiêu diệt, không bao giờ quấy phá nổi. Có khi chúng hiện hình chư thiên, chư Bồ Tát, ngay cả hình Phật nữa, với tướng tốt và vẻ đẹp đầy đủ. Có khi chúng nói Đà la ni. Có khi chúng nói Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Trí Tuệ. Có khi chúng nói Bình Đẳng, Không, Vô Tướng, Vô Nguyện, Không Oán Không Thân, Không Nhân Không Quả, Không Tịch Rốt Ráo, cho đó là Niết Bàn chân thật. Có khi chúng khiến người ta biết được những việc xảy ra trong các đời quá khứ và những việc sẽ xảy ra trong đời vị lai, có trí Tha Tâm Thông, có biện tài vô ngại, do đó làm cho chúng sanh càng thêm say đắm đường danh nẽo lợi thế gian. Lại có khi chúng khiến người ta chợt giận chợt mừng, tánh khí thất thường. Khi thì thương yêu da diết, khi thì ốm đau ngái ngủ li bì, tinh thần dã dượi. Hoặc vừa mới hăng hái xong thì liền bỏ dỡ công việc, chẳng tin gì hết, đa nghi đa lự. Hoặc bỏ ngang hạnh tu tốt đang tu mà theo các hạnh tu xằng bậy. Hoặc bị những chuyện phức tạp của thế gian lôi cuốn buộc ràng. Chúng còn có thể khiến người ta có được các loại tam muội mang máng như tam muội chân thật, nhưng đây là tam muội của ngoại đạo sở đắc. Hoặc chúng cũng có thể khiến người ta an trú ở trong định, từ một ngày, hai ngày, ba ngày, cho đến bảy ngày, được ăn những thức ăn thơm tho tự nhiên, làm cho thân tâm vui sướng, không thấy đói, không thấy khát, khiến phải đắm say. Hoặc làm cho người ta ăn không chừng đỗi, khi nhiều khi ít, nhan sắc thay đổi thất thường. Bởi những việc ma quái như vậy, cho nên hành giả phải thường vận dụng trí tuệquán sát, đừng để tâm mình rơi vào lưới tà. Phải siêng năng chánh niệm, không nắm bắt, cũng không để bị dính mắc, thời xa lìa được các nghiệp chướng ấy.

Nên biết, tam muội của ngoại đạo tu tập đều không lìa Tâm kiến ái và Tâm ngã mạn, vì họ tham đắm danh lợi và sự cung kính thế gian.

Còn Chân Như Tam Muội thì không trú nơi tướng Kiến, không trú nơi tướng Đắc, cho nên khi ra Định, cũng không có giãi đãi, không kiêu mạn, bao nhiêu phiền não có từ trước đều dần dần mỏng hết. Nếu các phàm phu không tu tập phép Tam Muội ấy mà được vào chủng tánh Như Lai thì đó là điều không thể có. Bởi lẽ, tu theo các phép Tam Muội của thế gian thì phần nhiều dấy khởi sa đắm hương vị trần tục, nương vào ngã kiến, bị trói buộc trong ba cõi, giống như ngoại đạo; Còn nếu rời khỏi sự hướng dẫn của thiện tri thức thời dấy khởi tà kiến cũng giống như ngoại đạo.

Lại nữa, ai siêng năng chuyên chú tu hành phép Tam Muội ấy, thì ngay trong đời này, được mười điều lợi ích. Mười điều lợi ích là gì?

Một là thường được Chư Phật Bồ Tát trong mười phương hộ niệm.

Hai là không bị ma quỷ hung dữ khủng bố.

Ba là không bị quỷ thần của chín mươi lăm ngoại đạo mê hoặc nhiễu loạn.

Bốn là xa lìa sự hủy báng giáo pháp thậm thâm, khiến tội lỗi nghiệp chướng nặng nề vơi dần thành cạn mỏng.

Năm là diệt hết mầm nghi đối với ác giác ác quán.

Sáu là đối với cảnh giới của Như lai, tăng trưởng được tín tâm.

Bảy là xa lìa lo lắnghối hận, lòng dõng mãnh không khiếp sợ đối với cảnh sanh tử.

Tám là tâm trở nên nhu nhuyễn, xả bỏ kiêu mạn, không bị người khác gây khổ não.

Chín là dù chưa được định, nhưng bất cứ lúc nào, ở trong bất cứ cảnh giới nào, cũng giảm thiểu được phiền não, không chạy theo dục lạc thế gian.

Mười là nếu đắc tam muội rồi, không bị mọi thứ âm thanh của ngoại duyên làm kinh động.

Lại nữa, nếu chỉ tu Chỉ thời Tâm bị trầm một, hoặc sanh giãi đãi, không thích làm các điều lành, xa lìa Tâm Đại Bi, cho nên phải tu Quán. Tập phép tu Quán là: 

Phải quán tất cả pháp hữu vi trong thế gian đều không tồn tại dài lâu, biến đổi hư hoại trong nháy mắt. Mọi tạo tác của Tâm đều niệm niệm sanh diệt, bởi thế nên khổ.

Phải quán các pháp sở niệm trong quá khứ, thoáng qua như giấc mộng.

Phải quán các pháp sở niệm trong hiện tại như tia điện chớp.

Phải quán các pháp sở niệm trong vị lai như bức tranh chó bỗng hiện ra trong mây.

Phải quán tất cả các thân đương hiện hữu đều là bất tịnh, chứa đầy ô uế, không một thân nào đáng ưa thích.

Như vậy, nên nghĩ tất cả chúng sanh, từ vô thủy đến giờ, đều vì bị Vô Minh huân tập cho nên khiến tâm sanh diệt, từng chịu biết bao đau khổ ê chề, cả thân lẫn tâm. Hiện tại thì bị vô lượng khổ đau bức bách. Cái khổ của vị lai cũng không có giới hạn. Thật là khó bỏ khó dứt, mà chẳng biết chẳng hay. Chúng sanh như vậy đó, rất đáng thương xót!

Tư duy như vậy rồi thì phải liền dõng mãnh lập Đại Thệ Nguyện. Nguyện sao cho tâm ta xa lìa phân biệt, tỏa khắp mười phươngtu hành tất cả các công đức lành, cho đến tận cùng đời vị lai, dùng vô số phương tiện, cứu vớt tất cả chúng sanh đau khổ, khiến cho họ được hưởng cái vui tuyệt đối của Niết Bàn. Nhờ khởi được các nguyện như vậy, cho nên bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, hễ có các việc lànhtùy theo khả năng của mình mà gánh vác, không bỏ sự tu học, Tâm không trễ nãi biếng nhác.

Chỉ trừ khi ngồi thì chuyên niệm tu Chỉ. Còn những khi khác thì phải quán sát cái chi nên làm và cái chi không nên làm. Dù đi, dù đứng, dù nằm, dù dậy, đều nên song tu cả Chỉ lẫn Quán. Nghĩa là: Tuy niệm các pháp, tự tánh không sanh, nhưng cũng tức là niệm nhân duyên hòa hợp, trong đó các nghiệp lành dữ, các báo khổ vui không mất không hư; Tuy niệm nhân duyên với nghiệp báo lành dữ, nhưng cũng tức là niệm tánh của chúng không thể đắc.

Nếu là tu Chỉ thì như khi đối trị Tâm tham đắm thế gian của phàm phu, khiến xả bỏ được kiến chấp khiếp nhược của Nhị Thừa.

Nếu là tu Quán thì như khi đối trị Tâm lượng hẹp hòi của Nhị Thừa, không phát Tâm Đại Bi, khiến xa lìa được lỗi lầm không chịu tu căn lành của phàm phu.

Chính bởi nghĩa ấy, cho nên môn tu Chỉ Quán này giúp nhau thành tựu, không rời bỏ nhau. Nếu Chỉ và Quán không đủ, thời không thể nào vào được đạo Bồ Đề.

Lại nữa, chúng sanh mới học pháp này, muốn cầu Chánh Tín, nhưng vì tâm mình còn quá khiếp nhược, sợ rằng ở cõi Ta Bà này, không được thường gặp Chư Phật để đích thân cúng dường, tín tâm e sợ khó thể thành tựu, ý muốn thối lui, thì hãy nên biết rằng Như Laiphương tiện tốt giúp họ thâu nhiếp tín tâm. Đó là dùng nhân duyên chuyên tâm niệm Phật, theo nguyện mà được sanh về cõi Phật ở một phương khác, thường được thấy Phật, dứt khoác xa lìa đường dữ.

Như trong kinh nói, nếu ai chuyên niệm Đức Phật A Di Đàthế giới Cực Lạc phương Tây, đem các căn lành do mình tu được mà hồi hướng nguyện cầu sanh về thế giới ấy, thì liền được vãng sanh. Bởi lẽ thường được thấy Phật, cho nên không bao giờ còn bị thối lui. Nếu ai quán Pháp Thân Chân Như của Đức Phật ấy và thường siêng năng tu tập, thì cuối cùng sẽ được sanh về, vì đã trú trong Chánh Định rồi.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11677)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12007)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11147)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11387)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12101)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12595)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10806)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18030)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11756)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9991)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10220)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12387)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15404)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11277)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14371)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12152)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15429)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12042)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12452)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11232)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12135)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10661)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12587)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13210)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14897)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12742)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16623)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19725)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13158)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12699)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12303)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11910)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10953)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13571)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11990)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11888)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11674)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12801)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14572)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12664)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15707)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13660)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12944)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9912)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18053)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11223)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9117)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12223)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13097)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10350)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12237)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15363)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16653)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12262)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11529)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14332)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19765)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14213)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24665)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10728)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant