Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

24. Kinh Trạm xe (Rathavinìta sutta)

10 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 18499)
24. Kinh Trạm xe (Rathavinìta sutta)


Ðại Tạng Kinh Việt Nam
KINH TRUNG BỘ

Majjhima Nikàya

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

24. Kinh Trạm xe
(Rathavinìta sutta)

Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở Rajagaha (Vương Xá) tại Veluvana (Trúc Lâm), Kalandakanivapa. 

Lúc ấy một số đông Tỷ-kheo người địa phương, sau khi an cư mùa mưa tại địa phương xong, liền đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo đang ngồi một bên: 

-- Này các Tỷ-kheo, ai ở tại địa phương được các Tỷ-kheo đồng phạm hạnh cùng một địa phương tán thán như sau: "Tự mình thiểu dục và giảng về thiểu dục cho các Tỷ-kheo; tự mình tri túc và giảng về tri túc cho các Tỷ-kheo; tự mình độc cư và giảng về độc cư cho các Tỷ-kheo; tự mình không ô nhiễm và giảng về không ô nhiễm cho các Tỷ-kheo; tự mình tinh cần, tinh tấn và giảng về tinh cần, tinh tấn cho các Tỷ-kheo; tự mình thành tựu giới hạnh và giảng về thành tựu giới hạnh cho các Tỷ-kheo; tự mình thành tựu Thiền định và giảng về thành tựu Thiền định cho các Tỷ-kheo; tự mình thành tựu trí tuệ và nói về thành tựu trí tuệ cho các Tỷ-kheo; tự mình thành tựu giải thoát và nói về thành tựu giải thoát cho các Tỷ-kheo; tự mình thành tựu giải thoát tri kiến và nói về thành tựu giải thoát tri kiến cho các Tỷ-kheo; vị giáo giới, vị khai thị, vị trình bày, vị khích lệ, vị làm cho phấn khởi, vị làm cho các vị đồng phạm hạnh hoan hỷ?".

-- Bạch Thế Tôn, Tôn giả Punna Mantaniputta là Tỷ-kheo địa phương được các Tỷ-kheo đồng phạm hạnh cùng một địa phương tán thán như sau: "Tự mình thiểu dục và nói về thiểu dục cho các Tỷ-kheo... (như trên)... vị làm cho các vị đồng phạm hạnh hoan hỷ." 

Lúc bấy giờ, Tôn giả Sariputta ngồi cách Thế Tôn không xa. Tôn giả Sariputta suy nghĩ như sau: "Hạnh phúc thay Tôn giả Punna Mantaniputta! Chơn hạnh phúc thay Tôn giả Punna Mantaniputta! Tôn giả đã được các vị đồng phạm hạnh có trí tán thán từng điểm một trước mặt bậc Ðạo Sư, và được bậc Ðạo Sư chấp nhận; có thể chúng ta sẽ gặp Tôn giả Punna Mantaniputta, tại một chỗ nào, trong một thời gian nào, có thể sẽ có một cuộc đàm luận với Tôn giả." 

Thế Tôn trú tại Rajagaha (Vương Xá) lâu cho đến khi vừa ý, rồi khởi hành đi Savatthi; Ngài tuần tự đi và đến Savatthi. Ở đây, Thế Tôn trú ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika. 

Tôn giả Punna Mantaniputta được nghe: "Thế Tôn đã đến Savatthi, trú ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika". Rồi Tôn giả Punna Mantaniputta thâu dọn lại sàng tọa, cầm y bát, khởi hành đi Savatthi. Tôn giả tuần tự đi đến Savatthi, Jetavana, vườn ông Anathapindika, đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Thế Tôn thuyết pháp cho Tôn giả Punna Mantaniputta đang ngồi một bên, khích lệ, làm cho hoan hỷ. Tôn giả Punna Mantaniputta, sau khi được Thế Tôn thuyết pháp, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, từ tạ đi Andhavana để nghỉ trưa.

Rồi một Tỷ-kheo khác đến chỗ Tôn giả Sariputta ở, sau khi đến, thưa với Tôn giả Sariputta: "Hiền giả Sariputta, Hiền giả luôn luôn tán dương Tỷ-kheo Punna Mantaniputta; vị này được Thế Tôn thuyết pháp, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài, từ tạ đi đến Andhavana để nghỉ trưa". 

Rồi Tôn giả Sariputta vội vã đem theo tọa cụ, đi theo sau lưng Tôn giả Punna Mantaniputta, đầu hướng về trước mặt (để theo dõi). Rồi Tôn giả Punna Mantaniputta đi sâu vào rừng Andhavana, và ngồi nghỉ trưa dưới một gốc cây. Tôn giả Sariputta, sau khi đi sâu vào rừng Andhavana, ngồi nghỉ trưa dưới một gốc cây. 

Rồi vào buổi chiều, Tôn giả Sariputta từ Thiền định độc cư đứng dậy, đến tại chỗ Tôn giả Punna Mantaniputta, sau khi đến nói lên với Tôn giả Punna Mantaniputta những lời chào đón, hỏi thăm, xã giao rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sariputta thưa với Tôn giả Punna Mantaniputta:

-- Hiền giả, có phải chúng ta sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn?
-- Thật như vậy, Hiền giả

-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích giới thanh tịnh?
-- Không phải vậy, Hiền giả.

-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích tâm thanh tịnh?
-- Không phải vậy, Hiền giả.

-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tônmục đích kiến thanh tịnh?
-- Không phải vậy, Hiền giả

-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích đoạn nghi thanh tịnh?
-- Không phải vậy, Hiền giả

-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh?
-- Không phải vậy, Hiền giả

-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích đạo tri kiến thanh tịnh?
-- Không phải vậy, Hiền giả

-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích tri kiến thanh tịnh?
-- Không phải vậy, Hiền giả

-- Hiền giả, khi hỏi "có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích giới thanh tịnh?", Hiền giả trả lời "Không phải vậy". Khi hỏi ... tâm thanh tịnh? ... kiến thanh tịnh?... đoạn nghi thanh tịnh? ... đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh? ... đạo tri kiến thanh tịnh? ... Khi hỏi "có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là vì mục đích tri kiến thanh tịnh?", Hiền giả trả lời "Không phải vậy". Như vậy, Hiền giả, với mục đích gì, sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn? 

-- Hiền giả, với mục đíchthủ trước Bát-niết-bàn, nên sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn

-- Hiền giả, có phải giới thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
-- Hiền giả, không phải vậy. 

-- Hiền giả, có phải tâm thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
-- Hiền giả, không phải vậy. 

-- Hiền giả, có phải kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
-- Hiền giả, không phải vậy. 

-- Hiền giả, có phải đoạn nghi thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
-- Hiền giả, không phải vậy. 

-- Hiền giả, có phải đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn? 
-- Hiền giả, không phải vậy. 

-- Hiền giả, có phải đạo tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
-- Hiền giả, không phải vậy. 

-- Hiền giả, có phải tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?
-- Hiền giả, không phải vậy. 

-- Hiền giả, có phải cái gì ngoài các pháp này là vô thủ trước Bát-niết-bàn? 
-- Hiền giả, không phải vậy. 

-- Hiền giả, khi hỏi "có phải giới thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?", Hiền giả trả lời: "Không phải vậy. Khi hỏi "có phải tâm thanh tịnh ...? ... có phải kiến thanh tịnh ...? ... có phải đoạn nghi thanh tịnh ...? ... có phải đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh ...? ... có phải đạo tri kiến thanh tịnh là ...? ... có phải tri kiến thanh tịnh ...? ... có phải cái gì ngoài các pháp này là vô thủ trước Bát-niết-bàn?", Hiền giả trả lời: "Không phải vậy." Hiền giả, vậy ý nghĩa lời nói này cần phải được hiểu như thế nào?

-- Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố giới thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn thì Ngài cũng tuyên bốthủ trước Bát-niết-bàn là đồng đẳng với hữu thủ trước Bát-niết-bàn. Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố tâm thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố kiến thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố đoạn nghi thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố đạo tri kiến thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn thì Ngài cũng tuyên bốthủ trước Bát-niết-bàn là đồng đẳng với hữu thủ trước Bát-niết-bàn. Hiền giả, và nếu Thế Tôn tuyên bố cái gì ngoài các pháp ấy là vô thủ trước Bát-niết-bàn, thì kẻ phàm phu có thể Bát-niết-bàn, vì này Hiền giả, phàm phu là ngoài các pháp ấy. 

Hiền giả, tôi sẽ cho Hiền giả một ví dụ, ở đây, một số kẻ có trí, nhờ ví dụ để hiểu ý nghĩa của lời nói. Hiền giả, như vua Pasenadi xứ Kosala trong khi ở tại Savatthi, có công việc khẩn cấp khởi lên ở Saketa, và bảy trạm xe được sắp đặt cho vua giữa Savatthi và Saketa. Hiền giả, rồi vua Pasenadi xứ Kosala, từ cửa nội thành ra khỏi Savatthi, leo lên trạm xe thứ nhất, và nhờ trạm thứ nhất đến được trạm xe thứ hai; từ bỏ trạm xe thứ nhất, leo lên trạm xe thứ hai, nhờ trạm xe thứ hai đến được trạm xe thứ ba; từ bỏ trạm xe thứ hai... đến được trạm xe thứ tư; từ bỏ trạm xe thứ ba... đến được trạm xe thứ năm, từ bỏ trạm xe thứ tư, leo lên trạm xe thứ năm, nhờ trạm xe thứ năm đến được trạm xe thứ sáu; từ bỏ trạm thứ năm, leo lên trạm xe thứ sáu, nhờ trạm xe thứ sáu, đến được trạm xe thứ bảy; từ bỏ trạm xe thứ sáu, leo lên trạm xe thứ bảy, nhờ trạm xe thứ bảy đến được Saketa, tại cửa nội thành. Khi vua đến tại cửa nội thành, các bộ trưởng cận thần, các thân thích cùng huyết thống hỏi như sau:"-- Tâu Ðại vương có phải với trạm xe này, Bệ hạ đi từ Savatthi đến Saketa tại cửa nội thành?" Hiền giả, vua Pasenadi nước Kosala phải trả lời như thế nào mới gọi là trả lời đúng đắn?

-- Hiền giả, vua Pasenadi nước Kosala phải trả lời như thế này mới trả lời đúng đắn: "-- Ở đây, trong khi ta ở Savatthi, có công việc khẩn cấp khởi lên ở Saketa, và bảy trạm xe được sắp đặt cho ta, giữa Savatthi và Saketa. Ta từ cửa nội thành ra khỏi Savatthi, leo lên trạm xe thứ nhất, và nhờ trạm xe thứ nhất, ta đến được trạm xe thứ hai; từ bỏ trạm xe thứ nhất, ta leo lên trạm xe thứ hai; và nhờ trạm xe thứ hai, ta đến được trạm xe thứ ba; từ bỏ trạm xe thứ hai... đến được trạm xe thứ tư; từ bỏ trạm xe thứ ba... đến được trạm xe thứ năm; từ bỏ trạm xe thứ tư... đến được trạm xe thứ sáu; từ bỏ trạm xe thứ năm, leo lên trạm xe thứ sáu, nhờ trạm xe thứ sáu, đến được trạm xe thứ bảy; từ bỏ trạm xe thứ sáu... leo lên trạm xe thứ bảy, nhờ trạm xe thứ bảy, Ta đến được Saketa, tại cửa nội thành". Hiền giả, vua Pasenadi nước Kosala trả lời như vậy mới trả lời một cách đúng đắn.

-- Cũng vậy, này Hiền giả, giới thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) kiến thanh tịnh; kiến thanh tịnh chỉmục đích (đạt cho được) đoạn nghi thanh tịnh; đoạn nghi thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh; đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) đạo tri kiến thanh tịnh; đạo tri kiến thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) tri kiến thanh tịnh; tri kiến thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) vô thủ trước Bát-niết-bàn. Này Hiền giả, sống phạm hạnh dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn là với mục đíchthủ trước Bát-niết-bàn.

Khi được nói vậy, Tôn giả Sariputta nói với Tôn giả Punna Mantaniputta:

-- Tôn giả tên là gì? Và các vị đồng phạm hạnh biết Tôn giả như thế nào?

-- Hiền giả, tên tôi là Punna và các vị đồng phạm hạnh biết tôi là Mantaniputta.

-- Thật hy hữu thay, Hiền giả! Thật kỳ diệu thay, Hiền giả! Những câu hỏi sâu kín đã được trả lời từng điểm một bởi một đệ tử nghe nhiều, đã biết rõ giáo lý của bậc Ðạo Sư, và vị đệ tử ấy là Tôn giả Punna Mantaniputta. Thật hạnh phúc thay cho các vị đồng phạm hạnh! Thật chơn hạnh phúc thay cho các vị đồng phạm hạnh được thăm viếng, được thân cận Tôn giả Punna Mantaniputta! Nếu các vị đồng phạm hạnh đội Tôn giả Punna Mantaniputta trên đầu với một cuộn vải làm khăn để được thăm viếng, để được thân cận, thì thật là hạnh phúc cho các vị ấy, thật là chơn hạnh phúc cho các vị ấy! Thật hạnh phúc cho chúng tôi, thật chơn hạnh phúc cho chúng tôi được thăm viếng, được thân cận Tôn giả Punna Mantaniputta!

Khi được nói vậy, Tôn giả Punna Mantaniputta nói với Tôn giả Sariputta:

-- Tôn giả tên là gì, và các vị đồng phạm hạnh biết Tôn giả như thế nào?

-- Hiền giả, tôi tên là Upatissa, và các vị đồng phạm hạnh biết tôi là Sariputta. 

-- Tôi đang luận bàn với bậc đệ tử được xem là ngang hàng với bậc Ðạo Sư mà không được biết là Tôn giả Sariputta. Nếu chúng tôi được biết là Tôn giả Sariputta, thì chúng tôi đã không nói nhiều như vậy. Thật hy hữu thay, Hiền giả! Thật kỳ diệu thay, Hiền giả! Những câu hỏi sâu kín đã được trả lời từng điểm một, bởi một đệ tử nghe nhiều, đã biết rõ giáo lý của bậc Ðạo Sư. Và vị đệ tử ấy là Tôn giả Sariputta. Thật hạnh phúc thay cho các vị đồng phạm hạnh! Thật chơn hạnh phúc thay cho các vị đồng phạm hạnh... được thăm viếng, được thân cận Tôn giả Sariputta! Nếu các vị đồng phạm hạnh đội Tôn giả Sariputta trên đầu với một cuộn vải làm khăn để được thăm viếng, được thân cận, thì thật hạnh phúc cho các vị ấy, thật chơn hạnh phúc cho các vị ấy! Thật hạnh phúc cho chúng tôi, thật chơn hạnh phúc cho chúng tôi được thăm viếng, được thân cận Tôn giả Sariputta!

Như vậy, hai bậc cao đức ấy cùng nhau thiện thuyết, cùng nhau tùy hỷ.

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

 

Majjhima Nikaya 24
Ratha-vinita Sutta
Relay Chariots
Translated by Bhikkhu Thanissaro

For free distribution only, as a gift of Dhamma



 

I have heard that on one occasion the Blessed One was staying near Rajagaha in the Bamboo Grove, the Squirrels' Sanctuary. Then a number of monks from the [Blessed One's] native land, having completed the Rains Retreat in the native land, went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to him, sat to one side. 

As they were sitting there, the Blessed One said to them, "Monks, whom in our native land do the native-land monks -- his companions in the holy life -- esteem in this way: 'Having few wants himself, he gives talks to the monks on fewness of wants. Contented himself, he gives talks to the monks on contentment. Secluded himself, he gives talks to the monks on seclusion. Unentangled himself, he gives talks to the monks on non-entanglement. Having aroused persistence in himself, he gives talks to the monks on arousing persistence. Consummate in his own virtue, he gives talks to the monks on becoming consummate in virtue. Consummate in his own concentration, he gives talks to the monks on becoming consummate in concentration. Consummate in his own discernment, he gives talks to the monks on becoming consummate in discernment. Consummate in his own release, he gives talks to the monks on becoming consummate in release. Consummate in his own knowledge and vision of release, he gives talks to the monks on becoming consummate in the knowledge and vision of release.[1] He is one who exhorts, informs, instructs, urges, rouses, and encourages his companions in the holy life.'" 

"Lord, the monk named Punna Mantaniputta (Mantani's son) is esteemed by the native-land monks -- his companions in the holy life -- in this way: 'Having few wants himself, he gives talks to the monks on fewness of wants. Contented himself, he gives talks to the monks on contentment. Secluded himself, he gives talks to the monks on seclusion. Unentangled himself, he gives talks to the monks on non-entanglement. Having aroused persistence in himself, he gives talks to the monks on arousing persistence. Consummate in his own virtue, he gives talks to the monks on becoming consummate in virtue. Consummate in his own concentration, he gives talks to the monks on becoming consummate in concentration. Consummate in his own discernment, he gives talks to the monks on becoming consummate in discernment. Consummate in his own release, he gives talks to the monks on becoming consummate in release. Consummate in his own knowledge and vision of release, he gives talks to the monks on becoming consummate in the knowledge and vision of release. He is one who exhorts, informs, instructs, urges, rouses, and encourages his companions in the holy life.'" 

Now at that time Ven. Sariputta was sitting not far from the Blessed One. The thought occurred to him: "It's a gain, a great gain for Ven. Punna Mantaniputta that his knowledgeable companions in the holy life speak his praise point by point in the presence of the Teacher, and that the Teacher seconds that praise. Maybe sometime or other I, too, will go to meet with Ven. Punna Mantaniputta; maybe I'll have some conversation with him." 

Then the Blessed One, having stayed at Rajagaha as long as he liked, set out wandering to Savatthi. Wandering by stages, he arrived there and stayed in Jeta's Grove, Anathapindika's monastery. Ven. Punna Mantaniputta heard, "The Blessed One has arrived at Savatthi and is staying near Savatthi in Jeta's Grove, Anathapindika's monastery." Setting his lodgings in order and taking his robes and bowl, he set out wandering to Savatthi. Wandering by stages, he went to where the Blessed One was staying in Jeta's Grove, Anathapindika's monastery. On arrival, having bowed down to the Blessed One, he sat to one side. As he was sitting there, the Blessed One instructed, urged, roused, and encouraged him with a Dhamma talk. Then Ven. Punna -- instructed, urged, roused, and encouraged with the Blessed One's Dhamma talk; delighting and approving of the Blessed One's words -- got up from his seat, bowed down to the Blessed One, circumambulated him, and went to the Grove of the Blind for the day's abiding. 

Then a certain monk went to Ven. Sariputta and, on arrival, said to him: "Friend Sariputta, the monk named Punna Mantaniputta whom you have so often praised -- instructed, urged, roused, and encouraged with the Blessed One's Dhamma talk; delighting and approving of the Blessed One's words -- has gotten up from his seat, bowed down to the Blessed One, circumambulated him, and has gone to the Grove of the Blind for the day's abiding." So Ven. Sariputta quickly picked up a sitting cloth and followed right behind Ven. Punna, keeping his head in sight. Ven. Punna plunged into the Grove of the Blind and sat down in the shade of a tree for the day's abiding. Ven. Sariputta also plunged into the Grove of the Blind and sat down in the shade of a tree for the day's abiding. 

Then in the evening, Ven. Sariputta arose from his seclusion and went to Ven. Punna. On arrival, he exchanged courteous greetings with him. After an exchange of friendly greetings and courtesies, he sat to one side. As he was sitting there, he said to Ven. Punna, "My friend, is the holy life lived under the Blessed One?" 

"Yes, my friend." 

"And is the holy life lived under the Blessed One for the sake of purity in terms of virtue?"[2] 

"No, my friend." 

"Then is the holy life lived under the Blessed One for the sake of purity in terms of mind [concentration]?" 

"No, my friend." 

"Then is the holy life lived under the Blessed One for the sake of purity in terms of view?" 

"No, my friend." 

"Then is the holy life lived under the Blessed One for the sake of purity in terms of the overcoming of perplexity?" 

"No, my friend." 

"Then is the holy life lived under the Blessed One for the sake of purity in terms of knowledge and vision of what is and is not the path?" 

"No, my friend." 

"Then is the holy life lived under the Blessed One for the sake of purity in terms of knowledge and vision of the way?" 

"No, my friend." 

"Then is the holy life lived under the Blessed One for the sake of purity in terms of knowledge and vision?" 

"No, my friend." 

"When asked if the holy life is lived under the Blessed One for the sake of purity in terms of virtue, you say, 'No, my friend.' When asked if the holy life is lived under the Blessed One for the sake of purity in terms of mind ... view ... the overcoming of perplexity ... knowledge and vision of what is and is not the path ... knowledge and vision of the way ... knowledge and vision, you say, 'No, my friend.' For the sake of what, then, my friend, is the holy life lived under the Blessed One?" 

"The holy life is lived under the Blessed One, my friend, for the sake of total Unbinding through lack of clinging."[3] 

"But is purity in terms of virtue total Unbinding through lack of clinging?" 

"No, my friend." 

"Then is purity in terms of mind ... view ... the overcoming of perplexity ... knowledge and vision of what is and is not the path ... knowledge and vision of the way ... knowledge and vision total Unbinding through lack of clinging?" 

"No, my friend." 

"Then is total Unbinding through lack of clinging something apart from these qualities?" 

"No, my friend." 

"When asked if purity in terms of virtue ... mind ... view ... the overcoming of perplexity ... knowledge and vision of what is and is not the path ... knowledge and vision of the way ... knowledge and vision is total Unbinding through lack of clinging, you say, 'No, my friend.' But when asked if total Unbinding through lack of clinging is something apart from these qualities, you say, 'No, my friend.' Now how, my friend, is the meaning of these statements to be understood?" 

"If the Blessed One had described purity in terms of virtue as total Unbinding through lack of clinging, my friend, then he would have defined something still accompanied by clinging as total Unbinding through lack of clinging. If he had described purity in terms of mind ... view ... the overcoming of perplexity ... knowledge and vision of what is and is not the path ... knowledge and vision of the way ... knowledge and vision as total Unbinding through lack of clinging, then he would have defined something still accompanied by clinging as total Unbinding through lack of clinging. But if total Unbinding through lack of clinging were apart from these qualities, then a run-of-the-mill person would be totally unbound, inasmuch as a run-of-the-mill person is apart from these qualities. 

"So, my friend, I will give you an analogy, for there are cases where it's through analogies that knowledgeable people can understand the meaning of what is being said. Suppose that while King Pasenadi Kosala was staying at Savatthi, some urgent business were to arise at Saketa; and that between Savatthi and Saketa seven relay chariots were made ready for him. Coming out the door of the inner palace in Savatthi, he would get in the first relay chariot. By means of the first relay chariot he would reach the second relay chariot. Getting out of the first relay chariot he would get in the second relay chariot. By means of the second relay chariot he would reach the third ... by means of the third he would reach the fourth ... by means of the fourth, the fifth ... by means of the fifth, the sixth ... by means of the sixth he would reach the seventh relay chariot. Getting out of the sixth relay chariot he would get in the seventh relay chariot. By means of the seventh relay chariot he would finally arrive at the door of the inner palace at Saketa. As he arrived there, his friends and companions, relatives and kin would ask him, 'Great king, did you come from Savatthi to the door of the inner palace in Saketa by means of this chariot?' Answering in what way, my friend, would King Pasenadi Kosala answer them correctly?" 

"Answering in this way, my friend, he would answer them correctly: 'Just now, as I was staying at Savatthi, some urgent business arose at Saketa; and between Savatthi and Saketa seven relay chariots were made ready for me. Coming out the door of the inner palace in Savatthi, I got in the first relay chariot. By means of the first relay chariot I reached the second relay chariot. Getting out of the first relay chariot I got in the second relay chariot. By means of the second relay chariot I reached the third ... by means of the third I reached the fourth ... by means of the fourth, the fifth ... by means of the fifth, the sixth ... by means of the sixth I reached the seventh relay chariot. Getting out of the sixth relay chariot I got in the seventh relay chariot. By means of the seventh relay chariot I finally arrived at the door of the inner palace at Saketa.' Answering in this way, he would answer them correctly." 

"In the same way, my friend, purity in terms of virtue is simply for the sake of purity in terms of mind. Purity in terms of mind is simply for the sake of purity in terms of view. Purity in terms of view is simply for the sake of purity in terms of the overcoming of perplexity. Purity in terms of the overcoming of perplexity is simply for the sake of purity in terms of knowledge and vision of what is and is not the path. Purity in terms of knowledge and vision of what is and is not the path is simply for the sake of purity in terms of knowledge and vision of the way. Purity in terms of knowledge and vision of the way is simply for the sake of purity in terms of knowledge and vision. Purity in terms of knowledge and vision is simply for the sake of total Unbinding through lack of clinging. And it's for the sake of total Unbinding through lack of clinging that the holy life is lived under the Blessed One." 

When this was said, Ven. Sariputta said to Ven. Punna Mantaniputta: "What is your name, friend, and how do your companions in the holy life know you?" 

"My name is Punna, friend, and my companions in the holy life know me as Mantaniputta." 

"How amazing, my friend, how astounding, that Ven. Punna Mantaniputta has answered point by point with profound, profound discernment in the manner of a learned disciple who has rightly understood the Teacher's message! It's a gain, a great gain, for any of his companions in the holy life who get to see him and visit with him. Even if they had to carry him around on a cushion placed on top of their heads in order to see him and visit with him, it would be a gain for them, a great gain. And the fact that I have gotten to see him and visit with him has been a gain, a great gain for me." 

When this was said, Ven. Punna said to Ven. Sariputta: "And what is your name, friend, and how do your companions in the holy life know you?" 

"My name is Upatissa, friend, and my companions in the holy life know me as Sariputta." 

"What? I've been talking with the disciple who is like the Teacher himself without knowing that it is Ven. Sariputta? Had I known it was Ven. Sariputta, I wouldn't have answered at such length. How amazing, my friend, how astounding, that Ven. Sariputta has questioned point by point with profound, profound discernment in the manner of a learned disciple who has rightly understood the Teacher's message! It's a gain, a great gain, for any of his companions in the holy life who get to see him and visit with him. Even if they had to carry him around on a cushion placed on top of their heads in order to see him and visit with him, it would be a gain for them, a great gain. And the fact that I have gotten to see him and visit with him has been a gain, a great gain for me." 

In this way did both great beings rejoice in each other's good words. 


Notes:

1. See AN X.69

2. Ven. Sariputta and Ven. Punna speak of this list of seven purities -- purity in terms of virtue, mind, view, the overcoming of perplexity, knowledge and vision of what is and is not the path, knowledge and vision of the way, and knowledge and vision -- as if it were a teaching familiar to both of them, and yet nowhere else is it mentioned as a Buddhist teaching in the discourses. The Atthaka Vagga (Sn IV), however, mentions various non-Buddhist sectarians who spoke of purity as the goal of their teaching and who variously defined that purity in terms of virtue, view, knowledge, and practice. Perhaps the seven types of purity listed in this discourse were originally non-Buddhist teachings that were adopted by the early Buddhist community and adapted to their own purpose for showing that these seven forms of purity functioned not as a goal of practice but as stages along the path to that goal. At any rate, this list of the seven purities formed the framework for Buddhaghosa's Visuddhimagga (The Path of Purity), the cornerstone of his Pali commentaries, in which the seven purities cover all three parts of the threefold training in virtue, concentration, and discernment.

3.Anupada-parinibbana. The Commentary gives two interpretations of this term. The first, taking upadana as clinging, is total Unbinding through lack of clinging. This, it says, refers to the fact that total Unbinding follows on the fruit of arahantship, which is devoid of clinging. The other meaning, taking upadana as sustenance, is total Unbinding with no sustenance. This, it says, refers to the fact that total Unbinding is independent of any condition. For an explanation of these meanings of the word upadana, see Bhikkhu Thanissaro's "The Mind Like Fire Unbound", chapter 3,
Source: Access-to-Insighthttp://world.std.com/~metta/canon/majjhima/mn24.html


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14738)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11803)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12741)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10317)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12044)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15267)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11051)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10494)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12450)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16414)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14285)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11757)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14773)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12002)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16795)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11553)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12717)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11328)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12034)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52060)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15446)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13955)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11416)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13146)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12762)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13195)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17883)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12432)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12635)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54181)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14409)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9918)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13811)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57924)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14472)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20117)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13756)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15382)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17479)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13298)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11907)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13474)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14645)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12467)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12146)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12050)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13269)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12523)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13652)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13309)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25561)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12167)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14521)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11828)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42042)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28299)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38771)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14707)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12684)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16232)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant