Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Khai Thị Cuối Cùng Tại Việt Nam

13 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 19949)
Khai Thị Cuối Cùng Tại Việt Nam

Hoà Thượng DUY LỰC Khai thị

CUỐI CÙNG TẠI VIỆT NAM

TT. Thích Đồng Thường Biên Tập Thành Văn Tự

 Mục lục 

19 – 3 => 25 – 3 -99. Chùa Hưng Phước:

- Vũ trụ quan thế kỷ 21
- Phân chia con sâu dép cỏ
- Dùng toán phân tích vô thỉ vô chung
- Hỏi câu thoại và nhìn thoại đầu
- Không hiểu không biết là nghi tình
- Đạo do tâm ngộ bất tại tọa
- Lực học Thích Ca là phi vật chất
- Tin tự tâm
- Câu thoại mục đích kích thích không biết
- Tham, sân, si từ đâu mà ra
- Tập tham thiền là còn biết nghi tình
- Đọc yếu chỉ Trung Quán Luận
- Phát tâm bồ đềphát tâm vô sở đắc
- Thoại đầu
- Tịnh và động là hai pháp tương đối
- Biết đến biết đi là như thế nào
- Cách tu Tịnh Độ không cần vãng sanh
- Tham thoại đầutụng kinh,… không
- Nhìn vào chỗ sơn cùng thủy tận
- Tại sao vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ
- Vô tri tức là nhất thiết tri
- Thân trung ấm của Ung Bá Huy
- Đường lối thực hành Tham Tổ Sư Thiền
- Vẫn biết cái không biết
- Mục Kiền Liên chứng quả còn bị nạn
- Tâm tịnh rồi tội liền tiêu, đúng không
- Pháp môn nào đều có giới luật
- Cầu siêu theo nghi thức Mục Kiền Liên
- Niệm Phật mà chết có vãng sanh không
- Nhất nhân hành đạo cửu huyền siêu thăng
- Cần calory để sống với người nhập định
- Pháp môn an tâm của Tổ Đạt Ma
- Niệm trước chẳng sanh là tâm
- Nghi thức quy y Tam Bảo
- Thiền giớisám hối
- Tam tịnh nhụcngũ tịnh nhục
- Tu Bát QuanTrai
- Cách thực hành Tổ Sư thiền
- Cúng sao giải hạn
- Thầy Minh Hiền cảm tạ
- Hòa thượng Hiển Pháp cảm tưởng

Khóa bồi dưỡng Thiền học tại chùa Long Khánh: Ngày 13 – 4 – 1999.

- Tâm như hư không vô sở hữu
- Tâm lực mạnh thì đến trước
- Tu thoại đầu chưa ngộ giống ngoại đạo
- Bất lập văn tự mà có bản văn tuyệt tác
- Lấy gì để minh để kiến
- Chuyện Hùynh Đình Kiên
- Ngọc châu vô giá
- Khán thoại đầu: Ta là ai
- Thâu nhiếp lục căn, tịnh niệm tương tục
- Con sâu dép cỏ
- Tham thiền có cần trường trai không
- Máy đo họat động của bộ não
- Phân biệt Tổ Sư thiềnNhư Lai thiền

16 – 4 => 22 – 4 – 99. Chùa Hưng Phước:

- Vì sao kiến tánh rồi tu Tịnh Độ
- Tông chỉ Tịnh Độ
- Tứ Liệu Giản
- Cái biết của Sư Phụ là cái gì
- Tông chỉ Tổ Sư thiền
- Không tìm hiểu câu thọai
- Giáo môngiáo lý có khác không
- Vai trò hành giả tham thiền
- Lạc đường tự tạiGiới sát sanh
- Tuyệt ngôn tuyệt lự, vô xứ bất thông
- Giáo hóa người phải có phương tiện
- Khoa học chẳng tạo ra cơ nhân
- Tánh thấy trong kinh Lăng Nghiêm
- Chưa có trời đất, con người ở đâu
- Hỏi câu thoại kích thích niệm không biết
- Tự tánh không phải sở biết
- Còn đi học làm sao tham thiền
- Siêu logic đồng ‘cứu kính cùng cực
- Tương đối chuyển sang tuyệt đối
- Sao bộ não không cùng khắp
- Cấy mô tế bào động vậtnhân quả
- Tỉnh thức có phải Như Lai thiền không
- Có ý muốn tu sao trái với đạo
- Tâm là cái gì? – Giới Bồ Tát
- Nghi sự – Xuất gia chơn tu là đại hiếu
- Đem sanh mạng bán phải bị nhân quả
- Tại sao tâm ma khó trị
- Tại sao tham thiềnhôn trầm
- Tu gặp nhiều chuyện thử thách
- Nhân quả con dâu và mẹ chồng
- Chiếu cố thoại đầu
- Tu có theo thứ tự cấp bậc không
- Tín, hạnh, nguyện
- Không hoằng Tịnh mà hoằng Thiền
- Thế nào dụng công liên tục
- Làm sao biết kiết tánh
- Chánh niệmThể dụng đều là tri
- Tất cả đều nhờ vô sở hữu
- Đến lúc ‘không biết’ cũng không biết
- Tự tâmtự tánh có khác không
- Vì sao tu lâu mà tập khí khó trừ
- Hữu tình và vô tình đều thành Phật đạo
- Nhất môn thâm nhập
- Tạo si phước là oan gia đời thứ 3
- Vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ
- Chánh trí
- Sự tích con heo Bạc Hà
- Nhất niệm bất sanh, vạn duyên buông bỏ
- Kế thành ngoại đạo
- Nạp Tăng – Núi bạc – Vách sắt
- Kiến, văn, nghi
- Từ bibác ái
- Sắc tức thị không, không tức thị sắc
- Không tụng kinhtham thiền 
- Tâm từ đâu ra
- Ngộ rồi đi đầu thai không
- Năng và sở

Khóa bồi dưỡng giảng sư tại văn phòng 2: Từ ngày 10 – 5 => 19 – 5 – 1999.

- Phật pháp không chia, giáo pháp chia
- Tiểu thừaTrung thừaĐại thừa
- Chơn tâmvọng tâm
- Từ gốc vô trụ sanh ra tất cả pháp
- Bản thể vũ trụ là thức thứ 8
- Phi vật chất là sức dụng nhanh nhất
- Ý căn, ý thức
- Khứ hậu lai tiên bát chủ công
- Việc thụ thai trong ống nghiệm
- Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm
- Đến chỗ tịnh làm sao tiến lên
- Pháp đối của Lục Tổ dạy
- Đói ăn khát uống không nghĩ cái khác
- Tại sao tu thiền bị nhập ma
- Thế lưu bố tưởngtrước tưởng
- Tứ tướng
- Tán loạnhôn trầm thì làm sao
- Núi, tức chẳng phải núi, là núi

15 – 5 => 21 – 5 – 99. Chùa Hưng Phước:

- Tham thiền đến giai đoạn quên
- Nhìn và hỏi cùng một lúc
- Sơ Tổ luật tông Đạo Tuyên
- Hư tiêu Tín thí, lạm nhận cung kính
- Chấp nghiệp chướngsai lầm
- Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn
- Thế nào là giới tánh
- Dứt vọng tâm thì chơn tâm hiện
- Bài kệ chữ “Tri” của Ngài Vĩnh Gia
- Đạo cao nhất xích, ma cao nhất trượng
- Tìm sự bắt đầu mọi vật
- Phàm có tương đối đều là vọng
- Chuyển thức thành trí
- Dùng không biết và biết để tu
- Sa ma tha, Tam ma bát đề, Thiền na
- Thế nào đúng tông chỉ Tổ Sư thiền
- Hiện tượng cầu hồn là như thế nào
- Tham thiền lọt vào ngũ ấm ma không
- Pháp thí đổi tài thí được không
- Vũ khí, lính cướp, tướng cướp, vua cướp
- Đới nghiệp vãng sanh
- Tại sao người nữ chỉ xuất gia 1 lần
- Lời Phật là bất định pháp
- Tứ pháp y
- Đạo do tâm ngộ bất tại tọa
- Tam pháp ấn là gì
- Tự nghi vấn sanh rồi mới tham
- Chưa ăn chay tham thiền được không
- Tham thiềnBát Quan trai được không
- Tu trong chướng duyên
- Thế nào để trừ nghiệp chướng
- Phật tánh không gián đoạn
- Thiền là gì? – Tánh thông
- Thế nào khai phá điều kỳ diệu tâm
- Tham thiền trong lúc không làm việc
- Tu chánh pháp phải phá ngã chấp
- Bước đầu tham thiền còn khởi ý niệm
- Hữu tình và vô tình từ đâu có
- Gặp Phật chém Phật, gặp Tổ chém Tổ
- Duy tuệ thị nghiệp
- Tìm sự bắt đầu của mọi vật
- Sự thấy không phải con mắt
- Có ‘cho là’ thì không phải Phật pháp
- Lời tác bạch thầy Minh Hiền
- Lời cảm tưởng Hòa thượng Hiển Pháp
 
 

LỜI NÓI ĐẦU

 
Trong quyển sách này là lời khai thị những ngày cuối cùngViệt Nam của Hòa thượng Thích Duy Lực, nên mới đặt tên “Khai Thị Cuối Cùng Tại Việt Nam”.
 
Hòa thượng giảng-đáp thắc mắc Thiền Học cho các giảng sư ở các tỉnh miền Trung, miền Đông, miền Tây và cá vị tham dự Thiền thất tại chùa Hưng Phước.
 
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam. Vì phục hưng Thiền này, mà ngài không ngại gian lao khai thị người tham học suốt 22 năm.
 
Chúng tôi cố gắng chép thành văn tự trong các cuốn băng, để các vị chưa nghe được biết, rồi tin tự tâm mình là Phật, mà dùng nghi tình phát huy Phật của chính mình ra ứng dụng.
 
Việc làm này không sao tránh khỏi sự sơ sót, xin các vị biết chỉ giáo cho.

Người thực hiện: Thích Đồng Thường.

Source: thuvienhoasen



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11675)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12002)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11146)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11387)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12099)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12590)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10804)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18030)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11756)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9986)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10220)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12386)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15400)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11276)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14368)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12149)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15423)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12040)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12452)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11228)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12133)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10660)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12581)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13208)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14893)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12742)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16621)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19723)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13154)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12697)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12302)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11908)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10949)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13568)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11989)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11887)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11672)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12798)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14570)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12662)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15707)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13660)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12940)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9910)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18050)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11221)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9113)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12222)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13095)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10348)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12234)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15361)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16651)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12253)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11524)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14324)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19759)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14213)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24664)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10728)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant