(THE WHEEL OF LIFE)
Thích Nữ Giới Hương
VÒNG KHỔ
1/ CÕI TRỜI
Do phước báo bố thí và thiền định, nên cõi trời có chánh báo và y báo như cảnh vật vui tốt, mọi người vui sướng, căn thân đẹp đẽ, thọ mạng lâu dài, đặng phép thần thông, dạo đi tự tại, những đồ y phục sẵn có, những cuộc du hí đủ bày, trăm thức tự nhiên thọ dụng đủ điều khoái lạc, không có những sự khổ như ở nhân gian. Các phước báu trong cõi đó, tuy là mỹ mãn như thế nhưng còn thuộc về hữu lậu, có hư có mất, không có chắc chắn, đó chính là sự vô thường, tướng vô định… Thế nên dẫu có sống đến mấy ngàn năm đi nữa, cũng không khỏi con ma sanh tử lôi kéo.
Kinh Tăng chi dạy: Nữ nhân mạng chung được sanh lên trời và tự tại trong ba địa hạt (nhan sắc, âm thanh và lạc thọ) là do vị ấy có tám điều như:
1.
Tận tâm thương quý gia đình
2.
Tôn
trọng sư trưởng và thân quyến
3.
Hết
lòng quán xuyến việc nhà
4.
Đối
xử thích hợp với người giúp việc
5.
Kỹ
càng bảo quản tài sản
6.
Quy
y Tam bảo
7.
Giữ
năm giới
8.
Hoan
hỉ bố thí.
Thường ta nghe nói hiện tiền giữ 10 giới thì khi mạng chung được sanh lên cõi trời. Tròn năm giới thì được làm người. Nhưng ở đây kinh Tăng Chi chỉ ra giữ năm giới cũng được sanh lên trời và tự tại trong ba địa hạt (nhan sắc, âm thanh và lạc thọ) là nhờ do công đức tròn bổn phận của mình đối với gia đình và xung quanh.
Như vậy, thật ra ở cương vị nào cũng được, chỉ cần thiện chí, có trí tuệ tháo vác mong đem an vui cho người, không cầu tư lợi. Cử chỉ săn sóc, ánh mắt ưu ái, lời nói ân cần, hoà nhã lịch sự, siêng năng phụng sự xung quanh là nhân thiết yếu để sanh thiên.
Những chúng sanh hưởng thụ cảnh giới tốt hơn người gọi là trời. Có ba cõi trời:
1.
Có những loài trời còn nghĩ ít nhiều đến sự ái ân thì
gọi là loài trời Dục giới.
2.
Có
những loài trời thoát ly ngũ dục nhưng còn sắc thân thì
gọi là loài trời Sắc giới.
3.
Còn
thoát ly ngũ dục và không sắc thân thì gọi là loài trời
Vô Sắc giới.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm[14] dạy rằng:
I/ Dục Giới Thiên (có 6 cõi trời Dục giới)
1.
Tứ Thiên Vương: vẫn ái ân với vợ hoặc chồng nhưng không
tà hạnh, tâm sáng suốt, mạng chung sống gần mặt trời và
mặt trăng.
2.
Đao
Lợi Thiên: ít ái ân với vợ hoặc chồng và thường
tịnh cư, tâm sáng suốt, mạng chung vượt lên mặt trời
và mặt trăng, ở trên chóp nhân gian.
3.
Tu
Diêm Ma Thiên: ít nhớ nghĩ việc ái ân, sống động ít,
tĩnh nhiều, tâm sáng suốt, sáng rỡ ở cõi hư không mà ánh
sáng mặt trời và mặt trăng không soi đến được.
4.
Đâu
suất đà thiên: lúc nào cũng tĩnh, nhưng khi có cảm xúc
vẫn bị chi phối, mạng chung sanh lên chỗ tinh vi, những hoại
kiếp và tam tai của nhân thiên cõi dưới không đến được.
5.
Lạc
biến hoá thiên: không còn ân ái dù có phải đáp ứng
nhưng thấy vô vị như ăn sáp. Mệnh chung sanh vào cảnh biến
hóa.
6.
Tha
hóa tự tại: không có tâm thế gian, chỉ đồng với thế
gian
mà làm ngũ dục, khởi tâm chán bỏ (chánh nhân khiến lên
vô sắc giới). Mạng chung vượt lên những cảnh biến hoá
và không biến hoá.
Sáu cõi trời như thế hình thức tuy khỏi động, nhưng tâm tính còn dính dấp ngũ dục. Từ các cõi trời ấy trở xuống gọi là Dục giới.
Trong Nhị khoá hiệp giải và Thắng pháp tập yếu luận nói rằng: tuổi thọ của cõi trời bằng mấy trăm ngàn tỷ năm con người.
Cõi Lục Dục thiên này cùng với loài người, súc, quỷ, địa ngục… là ở trong Dục giới.
II/ Sắc giới: các trời này thoát ly ngũ dục thường ở trong định, không dính dáng với trần cảnh, song chưa hết cái lụy hình hài nên gọi là sắc giới. Có 18 loài trời như
1.
Trời Phạm chúng
2.
Trời
Phạm Phụ
3.
Trời
Đại Phạm -> Sơ Thiền (ly sinh hỉ lạc địa)
4.
Trời
Thiểu Quang
5.
Trời
Vô Lượng
6.
Trời
Quang Âm ->Nhị Thiền (Định sinh hỉ lạc địa)
7.
Trời
Thiểu Tịnh
8.
Trời
Vô Lượng
9.
Trời
Biến Tịnh -> Tam Thiền (Ly hỉ diệu lạc địa)
10.
Trời
Phúc Sinh
11.
Trời
Phúc Ái
12.
Trời
Quảng Quả
13.
Trời
Vô Tưởng
14.
Trời
Vô Phiền
15.
Trời
Vô Nhiệt
16.
Trời
Thiện Kiến
17.
Trời
Thiện Hiện
18.
Trời
Sắc Cứu cánh -> Tứ thiền (Xả niệm thanh tịnh địa)
Theo dòng vận hành của tâm, nếu xả bỏ tham sân si, mạn, tà kiến (10 triền, 10 sử)[15] thay vào đó cho hiện khởi hỉ, định, lạc xả thì tùy khả năng tâm đạt, tùy sức mạnh điều ngự tâm của mình mà có cảnh giới khác. Như pha ly cafê sữa vậy, tùy sữa nhiều hay ít mà lạt màu.
III/ Trời Vô Sắc: không có sắc pháp ở trong và ngoài nên gọi vô sắc
1.
Trời Không Vô Biên Xứ
2.
Trời
Thức Vô Biên Xứ
3.
Trời
Vô Sở Hữu Xứ
4.
Trời
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ
Thắng
Pháp Tập Yếu luận cũng trình bày khá đặc biệt về kiết
sanh thức hay kiết sanh tâm liên hệ giữa đời này và đời
sau của nhiều cảnh giới từ địa ngục cho đến cõi cao
nhất của vô sắc giới. Như kiết sanh thức có bốn loại:
a.
Ác
thú (địa ngục, ngạ quỷ và bàng sanh) kiết sanh thức
b.
Dục
giới thiên sanh thức
c.
Sắc
giới thiên sanh thức
d.
Vô
sắc giới thiên sanh thức.
Ở các cõi trời này do phước báo nên y báo và chánh báo đều tốt hơn cõi người, nhưng phải biết sau một thọ mạng dài lâu huởng vui, nghĩa là sáu căn bị gây mê tham luyến các dục (dục giới), an hưởng trạng thái an lạc của thiền (sắc giới và vô sắc giới) trụ vào tư thực [16] kéo dài mạng sống, số đông chết đều đọa ác thú. Nên chư Phật thường thành đạo ở cõi người và khuyên đệ tử coi cõi trời là hiểm nạn chướng ngại sự giải thoát, không nên cầu về.