Một bản thâu gọn quyển "Milinda Panha"
Bản Anh ngữ: Tỳ Kheo Pesala - Bản Việt ngữ: Cư sĩ Liễu Pháp
1.
“Bạch ngài Nāgasena, các vị xuất gia như Ngài có coi thân
thể mình là thân thiết không?”
“Thưa
Đại
Vương, không có như vậy.”
“Thế
thì
tại sao các ngài nuôi dưỡng và chú ý quá đáng đến
thân thể?”
“Chúng
tôi
nuôi dưỡng thân thể và lo cho thân thể như quí vị săn
sóc một vết thương, chẳng phải vết thương thân thiết
gì với quí vị mà chỉ vì để cho da thịt có thể nẩy nở
trở lại. Về điều này, Đức Phật có nói:
“Quá rõ thân này bẩn thỉu thay
Giống
như phân dấu chỗ riêng tây
Thân
này hiểu biết ai không ngán
Thích
thú riêng ai kẻ dại khờ.
Chín lổ trên thân mụt nhọt đầy
Bọc
bao nhầy nhụa dưới làn da
Ung
thư nhỏ giọt rơi cùng phía
Rải
độc mùi hôi thối tận xa.
Chẳng biết thân này có vỡ tan
Bẩn
dơ trong đó phải tuôn tràn
Người
này chắc phải cần roi vọt
Đuổi
xa đi chó quạ đến gần’.” (*E 6.1)
*E 6.1: Do Tỳ Kheo Ñānamoli dịch ra Anh ngữ từ nguyên bản.
“This filthy body stinks outright
Like
ordure, like a privy’s site;
This
body men that have insight,
Condemn,
is object of a fool’s delight.
A tumour where nine holes abide
Wrapped
in a coat of clammy hide
And
trickling filth on every side,
Polluting
the air with stenches far and wide
If it perchance should comeabout
That
what is inside it came out
Surely
a man would need a knout
With
which to put the dogs and crows to rout.”
____________________________________________________________________
2.
“Nếu quả Đức Phật thông suốt mọi sự, tại sao Ngài
chỉ đặt ra giới luật cho Tăng đoàn khi hoàn cảnh cần đến?”
“Ngài
chỉ
đặt ra giới luật khi cần thiết như một y sĩ giỏi
chỉ cho toa thuốc khi cần thiết mặc dầu vị y sĩ đã biết
mọi thứ thuốc men trước khi cơn bệnh sinh ra.”
3.
“Nếu Đức Phật có 32 tướng tốt của một bậc đại nhân
thì tại sao cha mẹ của Ngài lại không có tướng tốt như
vậy?”
“Như
một
hoa sen sinh ra trong bùn và lớn lên trong nước, hoa sen
không giống bùn và nước; cũng như vậy, Đức Phật không
giống cha mẹ của Ngài.”
4.
“Phải chăng Đức Phật là một vị độc thân, sống đời
trong sạch như một vị phạm thiên?” (*V6.4)
“Vâng,
thưa
Đức Vua, đúng vậy.”
“Thế
thì
Ngài là tín đồ của Brahmā!”
“Mặc
dầu
tiếng một con voi giống tiếng con vạc, con voi chẳng
phải là đệ tử của loài chim vạc. Thưa Đức Vua, phải
chăng Brahmā là bậc có trí tuệ (buddhi)?” (*V6.4)
“Đúng
vậy.”
“Thế
thì
ngài phải là một đệ tử của Đức Phật!”
5.
“Phải chăng việc thụ phong tăng sĩ là một điều tốt?”
“Đúng
vậy.”
“Nhưng
Đức
Phật có được thụ phong hay không?”
“Thưa
Đại
Vương, khi Đức Phật thành đạo, đạt được trí tuệ
thông biết mọi sự, dưới gốc cây Bồ Đề thì đối với
Ngài đó là sự thụ phong; chẳng có ai thụ phong cho Ngài như
là Ngài đã thụ phong cho đồ đệ của Ngài.”
6.
“Thử xem trường hợp nào nước mắt là nguồn chữa trị:
phải chăng khi một người khóc vì mẹ mất hay khi người
đó khóc vì cảm nhận được sự thực ?”
“Thưa
Đứa
Vua, nước mắt trong trường hợp đầu là nước mắt
hoen ố và nóng bỏng vì dính mắc, nhưng nước mắt trong trường
hợp thứ hai không bị hoen ố và tươi mát. Có nguồn chữa
trị trong sự tươi mát và tĩnh lặng, nhưng trong sự nóng
bỏng và dục vọng thì không có sự chữa trị.”
7.
“Cái gì phân biệt giữa một người đầy dính mắc và một
người khác không bị dính mắc?”
“Tâu
Đức
Vua, người dính mắc thì bị trói buộc, còn người
kia thì không.”
“Điều
đó
có nghĩa gì?”
“Người
dính
mắc thì sống trong tham muốn, còn người kia thì không.”
“
Nhưng cả hai đều thích ăn ngon, không ai thích ăn dỡ.”
“Thưa
Đức
Vua, người dính mắc khi ăn thì kinh nghiệm cả mùi vị
lẫn sự dính mắc, nhưng người không dính mắc thì khi ăn
chỉ kinh nghiệm mùi vị mà không bị dính mắc với mùi vị.”
____________________________________________________________________
“*V6.4:
Brahmacārin
là một vị phạm thiên; Brahmacāri là thực hành
phạm hạnh, tu tập hạnh thanh tịnh theo Bà La Môn. Brahmā là
vị giáo chủ Bà La Môn.
_____________________________________________________________________
8.
“Trí
tuệ ở vào đâu?” (*V6.8)
“Thưa
Đức
Vua, không đâu cả”
“Thế
thì
không có trí tuệ.”
“Gió
thì
ở đâu?”
“Không
đâu
cả.”
“Thế
thì
không có gió!”
“Nāgasena,
Ngài
thật tài tình trong việc đối đáp.”
_____________________________________________________________________
*V6.8:
Trí
tuệ là paññā (wisdom); đã được nói đến trong Chương
3 và sự khác biệt với thức (viññāna) sẽ được đề cập
trong Chương 7.
_____________________________________________________________________
9.
“Vòng sinh tử luân hồi (samsāra) có nghĩa là gì?”
“Người
nào
sinh ra ở đây thì chết ở đây và sinh ra ở một nơi
khác. Sau khi sinh ra ở đó thì chết ở đó và sinh ra mội
nơi khác nữa.”
10.
“Bằng cái gì mà ta nhớ được những gì đã làm từ lâu
về trước?”
“Bằng
trí
nhớ (sati).” (*V6.10)
“Phải
chăng
bằng tâm (citta) mà ta nhớ được?”
“Thưa
Đức
Vua, ngài có nhớ lại việc gì ngài đã làm và rồi
quên bẵng đi?”
“Bạch
Đại
Đức, có.”
“Thế
thì
lúc ngài quên, ngài không có tâm chăng?”
“Thưa
không
phải vậy, nhưng tại vì trí nhớ hỏng.”
“Thế
thì
tại sao ngài lại nói chúng ta nhớ bằng tâm?”
11.
“Phải chăng trí nhớ luôn luôn tự nó sinh khởi hay là trí
nhớ được khơi dậy bằng ngoại cảnh?”
“Thưa
Đức
Vua, cả hai.”
“Tuy
do
cả hai nhưng phải chăng tựu trung tất cả đều do trí
nhớ tự nó sinh khởi?” (*E 6.11).
“Thưa
Đức
Vua, nếu giả sử rằng chẳng có trí nhớ phiến diện
thì người học nghề chẳng cần thực tập hoặc đi đến
trường học và thầy dạy chẳng có ích lợi gì; nhưng thực
sự thì ngược lại.”
*V6.10: Sati là nhớ, cũng gọi là Niệm, có 3 nghĩa:
a) Trong nghĩa Chánh Niệm (Mindfulness), đó là :
- 1 trong 5 chi của Ngũ Căn (5 Controlling Faculties) và của Ngũ Lực (5 Moral Powers) ;
- 1 trong 7 chi của Thất Giác Chi (7 Factors of Enlightenment);
- 1 trong 8 chi của Bát Chánh Đạo (8-fold Path).
b) Với nghĩa rộng nhất trong Vi Diệu Pháp, Chánh Niệm là 1 Tâm Sở ( Mental Factor, Cetasika) luôn luôn sinh diệt với các Tâm Thiện ( Wholesome, Lofty Consciousness, Kusala, Sobhana Viññāna).
c) Niệm cũng ở trong Tứ Niệm Xứ (4 Foundations of Mindfulness, Satipatthāna), 4 nền tảng quán niệm:
- niệm Thân (contemplation of the Body, kāyānupassanā)
- niệm Thọ (contemplation of the Feelings, vedanānupassanā)
- niệm Tâm (contemplation of the Mind, Cittānupassanā)
- niệm Pháp (contemplation of the Mind-Objects, dhammanupassanā).