Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

12 - Hỏi & đáp

06 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9050)
12 - Hỏi & đáp

NGHIỆP BÁO
Giới Thiệu Tổng Quát
Tác giả: Alexander Berzin - Chuyển ngữTuệ Uyển

12 – HỎI ĐÁP

HỎI: Trong phạm vi này, tội lỗi không có trong tấm ảnh? Không có việc gì với tội lỗi ở đây, có phải không?

ĐÁP: Đúng thế. Sự giải thích của Đạo Phật về nghiệp báo không liên can gì đến tội lỗi. Tội lỗi là căn cứ trên sự suy nghĩ trong những hình thức của một cái “tôi” rất mạnh mẽ vững chắc như một thực thể tồn tại riêng biệt và những gì tôi đã làm như một thực thể riêng lẻ khác, giống như hai quả bóng bàn, hay điều gì ấy giống như thế. Và sau đó chúng ta tin tưởng rằng thực thể cái “tôi” là quá tệthực thể “những gì tôi đã làm” cũng là tệ hại. Vì thế cũng có một sự phán đoán của hai thực thể dường như vững chắc và rồi thì không thể buông xả được – đó là tội lỗi. Giống như chẳng bao giờ vất rác ra khỏi nhà chúng ta, mà chỉ giữ nó bên trong và nói nó ghê tởm như thế nào, nó hôi thối như thế nào, nó nhơ bẩn như thế nào, và chẳng bao giờ buông bỏ.

HỎI: Nghe có vẻ rất rõ ràng và rất hơp lý (logic), và tôi có thể hiểu toàn bộ hệ thống, và làm thể nào giải thoát khỏi sự mê muội, và sự những khuynh hướng thúc đẩy cùng mọi thứ. Nhưng tôi nghĩ rằng thấu hiểu nó chưa đủ để giải thoát ngay bây giờ đối với những kinh nghiệm hay sự thúc đẩy hành động một cách bắt buộc.

ĐÁP: Đúng thế. Vâng, đấy là tại sao trước tiên chúng ta cần thực nghiệm đạo đức tự giác (tự tàm). Hãy nhớ là, chúng ta đề cập rằng có một khoảng cách nhỏ giữa điều khi tôi cảm thấy giống như muốn nói, “Ô thật là một bộ đồ xấu xí mà bạn mặc hôm nay,” và khi tôi thật sự nói nó. Nếu chúng ta có thể nắm bắt khoảng không gian ấy, thế thì chúng ta có khả năng để quyết định những gì sẽ ảnh hưởng nếu tôi nói với người ấy rằng người ấy đang mặc một bộ đồ xấu xí. Và nếu chúng ta thấy rằng điều ấy sẽ không là sản phẩm tốt đẹp chúng ta không phát hành nó. Đấy là nơi chúng ta bắt đầu – với nguyên tắc đạo đức và sự tự kiểm soát.
Cũng thế, chúng ta có thể thẩm tra cảm xúc nào tôi đang cảm nhận khi tôi muốn làm việc gì ấy? Tại sao tôi ao ước làm việc gì ấy căn cứ trên một cảm xúc phiền não, chẳng hạn như tham lam? Có phải nó căn cứ trên sân hận; có phải nó căn cứ trên si mê? Tôi có nghĩ rằng nếu nói bộ đồ của bạn là xấu xí sẽ không có bất cứ ảnh hưởng nào đối với bạn? Hay có phải tôi ao ước làm việc gì đấy căn cứ trên sự tử tế ân cần, và đây là những việc tích cực hơn? Đây là tại sao sự định nghĩa của một cảm xúc phiền não hay một thái độ quấy rầy là rất hữu ích: nó một tình trạng của tâm thức, là thứ, mà khi nó sinh khởi, nó làm cho chúng ta mất sự an bình của tâm thức và mất sự tự kiểm soát.
Chúng ta có thể nói rằng khi chúng ta mất sự an bình của tâm thức: tim chúng ta đập hơi nhanh hơn; và chúng ta cảm thấy hơi khó chịu. Vì thế, chúng ta cố gắng chú ý, thí dụ, những việc vi tế, như có phải tôi đang nói điều gì đấy do tự hào? Thí dụ, ai đấy nói, “Tôi không hiểu điều đó,” và bạn nói, “Ô, nhưng tôi hiểu!” Quý vị sẽ chú ý một sự hơi bực bội, một chút tự hào, một sự kiêu hãnh nào đấy, và vì thế đây là những gì chúng ta đề phòng.

HỎI: Tôi có hơi không hiểu. Tôi nghĩ, giáo sư đề cập rằng có hai cảm xúc không ngừng đây là hạnh phúcbất hạnh, những sự giao động lên xuống này. Có phải giáo sư đang nói rằng một trong hai điều này la tham dục, còn thứ kia là gì?

ĐÁP: Những gì tôi đang giải thích là hai nhân tố mà chúng khởi động những khuynh hướng nghiệp báo – những điều này đến từ những giáo lý mười hai nhân duyên. Một thứ là tham dục (ái - thứ 8) và thứ kia – tôi đang làm cho đơn giản – thứ kia đặc biệt gọi là thái độ hay cảm xúc đạt được tức là chấp trước (thủ - thứ 9), và nó là một danh sách khoảng năm khả năng khác nhau. Đây là những gì sẽ đạt đến một kết quả, và vì thế điều nổi bật nhất là xác định rõ một cái “tôi” vững chắc với nó chúng ta đang trải qua, với những gì đang diễn tiến.

HỎI: Có phải sự xác định cái “tôi” vững chắc trong mối quan hệ đến điều gì đấy? Rõ ràng có sự rối rắm ở đây, và rằng chúng ta phải chăm sóc nó và thoát khỏi sự rối rắm mù mờ. Nhưng điều gì chúng ta thật sự đang mù mờ và điều chúng ta đang rối rắm với nó?

ĐÁP:  Đấy không phải là một câu hỏi dễ dàng để trả lời trong một cách đơn giảnChúng ta đang mê mờ cái “tôi” thật sự tồn tại, cái “tôi” quy ước, với cái “tôi” sai lầm không thật sự hiện hữu. Nhưng gì chúng ta đang làm là đang tưởng tượng cái “tôi” hiện nay, là thật sự tồn tại hiện hữu trong một cách không thể xãy ra được nào đấy, nó sự thổi phồng. Nó đang thêm vào điều gì đấy không có ở đó. Thí dụ: tôi vui vẻ hay tôi không vui vẻ. Không phải là bạn không vui vẻ; tôi không vui vẻ. Khi có một kinh nghiệm hạnh phúc hay bất hạnh, chúng ta liên hệ nó trong những dạng thức của tôi hạnh phúc. Không phải rằng bạn vui vẻ và ai đấy khác vui vẻ - tôi vui vẻ. Cái “tôi” (‘I’ hay ‘me’) là cái “tôi” quy ước, là điều thật sự hiện hữu.

Hãy để chúng tôi dùng một thí dụ cho cái “tôi” quy ước này. Giả sử chúng ta xem một bộ phim và hãy nói bộ phim là “Cuốn Theo Chiều Gió”. Trong ấy, có một cảnh vui, rồi một cảnh không vui, và rồi một cảnh vui khác. À…,điều gì đang xãy ra ở đây? Màn hạnh phúc là một cảnh trong phim “Cuốn Theo Chiều Gió” và mà không vui là một cảnh khác của bộ phim. “Cuốn Theo Chiều Gió” là chúng ta đã đặt tên một cách quy ước cho toàn thể các màn ấy, tất cả các cảnh ấy, cả vui vẻ hạnh phúc và buồn đau bất hạnh. “Cuốn Theo Chiều Gió”, tuy thế, chỉ là tiêu đề, chỉ là một cái tên. Nhưng khi chúng ta nói về “Cuốn Theo Chiều Gió”, chúng ta không chỉ nói về tựa đề. Chúng ta đang nói về bộ phim thật sự - mà tựa đề liên hệ đến. Đấylà bộ phim hiện hữu một cách quy ước: nó tồn tại. Bộ phim là điều gì đấy tách biệt khỏi mỗi màn của những cảnh ấy – một bộ phim tách rời và độc lập với những cảnh ấy sẽ là một bộ phim không thật. Nó không tồn tại. Một bộ phim tồn tại một cách quy ước đơn thuần là những gì có thể đặt tên hay quy cho, chúng ta nói, trên căn bản của những màn, những cảnh.

Tương tự thế, chúng ta có những thời khắc hạnh phúc trong đời sống, chúng ta có những lúc không vui trong cuộc đời và v.v…, và chúng ta liên hệ như thế nào đến tất cả những điều ấy? Chúng ta liên hệ tới nó như cái “tôi” – cái “tôi” quy ước, là điều thật sự hiện hữu: nó không phải là bạn, nó là “tôi”. Tương tự thế, bộ phim là “Cuốn Theo Chiều Gió”, không phải là “Chiến Tranh Các Vì Sao”. Nhưng không có cái “tôi” tách biệt từ những thời khắc của kinh nghiệm hạnh phúcbất hạnh và cái “tôi” là điều đang kinh nghiệm những thời khắc ấy. Đó sẽ là cái “tôi” không thật, một cái “tôi” không thật sự tồn tại. Và cái “tôi” không chỉ là một từ ngữ; vì thế cái “tôi” chỉ đơn thuần là những gì mà từ ngữ ấy đang liên hệ đến trên căn bản của tất cả những thời khắc trãi qua của một đời sống.

Sự mù mờ, thế thì, sẽ là để nghĩ rằng có một cái “tôi” riêng biệt nào đấy hiện diện trong thân thể này, cư ngụ trong đấy, nối kết với nó bằng cách nào đấy, nhấn những nút bấm, và bây giờ cái “tôi” ấy là đang trải qua cái đau trên bàn chân của tôi, và tôi rất đau khổ và tôi không thích điều ấy. Nó giống như có một cái “tôi” tách biệt với toàn bộ những kinh nghiệm bên trong cái vật xa lạ ấy được gọi là thân thể. Sau đó, trên căn bản sự mê mờ rối rắm về cái “tôi” riêng biệt – cái “tôi” không thật này – với cái “tôi” quy ước và đồng hóa nó với cái “tôi” không thật, chúng ta cảm nhận, với tham dục (ái), “tôi pahir tách biệt khỏi sự buồn phiền này, từ sự đớn đau này, từ sự bất hạnh mà tôi trãi qua với cái đau của thân thể vật lý.” Dĩ nhiên, khi chúng ta không có nhận thức sai lầm ấy về cái “tôi” vững chắc, điều ấy không có nghĩa là rằng chúng ta chỉ ngồi đấy và tiếp tục có cái đớn đau. Nếu bàn chân chúng ta ở trên ngọn lửa, dĩ nhiên, chúng ta đưa bàn chân chúng ta ra khỏi lửa, nhưng khái niệm cái “tôi” ở phía sau là hoàn toàn khác biệt. Không có gì sợ hãi.

Nhưng khái niệm của một cái “tôi” không thật đối kháng với một cái “tôi” quy ước là rất phức tạpcấp tiến cao độ. Vì thế, hãy rời nó bây giờ. Hãy chấm dứt ở đây, thay vào đấy, cho buổi tối hôm nay với một lời hồi hướngChúng ta quán niệm: bất cứ điều hiểu biết nào, bất cứ năng lực tích cực nào đã đến từ điều này, nguyện cầu tất cả được thâm nhập càng sâu sắc hơn hơn nữa, phát triển càng mạnh mẽ hơn hơn nữa, và hành động như nguyên nhân để đạt đến giác ngộ vì lợi ích cho tất cả.

Introductory Lecture on Karma
Alexander Berzin 
Xalapa, Mexico, May 2, 2006
Tuệ Uyển chuyển ngữ
21-03-2010
http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/sutra/level2_



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11689)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12008)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11151)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11394)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12116)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12603)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10824)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18044)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11759)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9996)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10226)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12404)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15409)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11283)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14398)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12157)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15442)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12048)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12472)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11257)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12136)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10668)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12593)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13232)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14914)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12750)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16629)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19732)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13182)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12719)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12326)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11915)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10976)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13578)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11997)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11913)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11690)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12803)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14586)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12671)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15731)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13665)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12960)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9923)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18071)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11230)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9125)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12247)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13102)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10354)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12243)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15382)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16679)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12295)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11552)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14344)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19781)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14220)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24681)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10738)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant