Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

III. Mười bảy pháp Tăng-Già Bà-thi-sa

02 Tháng Ba 201100:00(Xem: 12941)
III. Mười bảy pháp Tăng-Già Bà-thi-sa

TĂNG ĐỒ NHÀ PHẬT (HÁN VIỆT)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

GIỚI LUẬT TỲ-KHEO NI

III. MƯỜI BẢY PHÁP TĂNG-GIÀ BÀ-THI-SA

_ Kính bạch chư đại tỷ tăng. Mười bảy pháp tăng-già bà-thi-sa này, nửa tháng phải tụng đọc một lần, được rút từ trong Giới kinh ra.

1. Như có tỳ-kheo ni nào đi lại làm môi giới giữa đôi bên trai gái, chuyển lời qua lại giữa đôi bên, hoặc sau thành chồng vợ, hoặc chỉ dan díu cùng nhau, dù là thoáng chốc. Tỳ-kheo ni phạm lần đầu tiên như vậy nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

2. Như có tỳ-kheo ni nào, vì sự giận tức không vui, vô cớ vu cáo cho người khác là phạm tội ba-la-di, vì muốn hủy hoại sự trong sạch của người ấy. Thời gian sau, hoặc có người hỏi hoặc không có người hỏi, tỳ-kheo ni ấy tự biết mình vô cớ vu cáo nên nói ra rằng: “Điều ấy là do tôi tức giận mà nói như vậy thôi.” Tỳ-kheo ni phạm lần đầu tiên như vậy nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

3. Như có tỳ-kheo nào, vì sự giận tức không vui, dựa vào những căn cứ mà tự mình biết là sai lệch, không đúng, để vu cáo cho người khác là phạm tội ba-la-di, vì muốn hủy hoại sự trong sạch của người ấy. Thời gian sau, hoặc có người hỏi hoặc không có người hỏi, tỳ-kheo ni ấy tự biết mình đã dựa vào những chứng cứ sai lệch, không đúng, nên nói ra rằng: “Điều ấy là do tôi tức giận mà nói như vậy thôi.” Tỳ-kheo ni phạm lần đầu tiên như vậy nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

4. Như có tỳ-kheo ni nào tự đến cửa quan mà thưa kiện, tranh chấp với một người thế tục, hoặc con cái, người hầu... của người thế tục, dù là vì chuyện gì, dù là vào lúc nào. Tỳ-kheo ni phạm lần đầu tiên như vậy nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

5. Như có tỳ-kheo ni nào biết người nữ phạm tội đáng chết, mọi người đều rõ. Biết như vậy mà không đến hỏi trước nơi quan chức, không tra xét trong dòng họ, lại độ cho người nữ ấy xuất gia thọ cụ túc giới. Tỳ-kheo ni phạm lần đầu tiên như vậy nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

6. Như có tỳ-kheo ni nào biết tỳ-kheo ni khác phạm giới, chúng tăng đã theo đúng pháp, đúng luật, đúng lời Phật dạy chỉ bảo cho mà không chịu nghe theo, không chịu sám hối. Chúng tăng vì thế chưa cho phép người ấy được cùng ở chung. Tỳ-kheo ni tuy biết như vậy, mà vì lòng ái luyến nên không thưa hỏi chúng tăng, chúng tăng cũng không sai khiến, lại tự ý làm phép yết-ma giải tội cho tỳ-kheo ni kia. Tỳ-kheo ni phạm lần đầu tiên như vậy nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

7. Như có tỳ-kheo ni nào, đi một mình vượt qua dòng nước, hoặc một mình vào trong thôn xóm, hoặc ngủ đêm một mình, hoặc một mình đi sau tất cả mọi người. Tỳ-kheo ni phạm lần đầu tiên như vậy nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

8. Như có tỳ-kheo ni nào, khởi tâm ô nhiễm, biết một người nam cũng khởi tâm ô nhiễm, nhận lãnh vật thực, đồ dùng từ người ấy. Tỳ-kheo ni phạm lần đầu tiên như vậy nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

9. Như có tỳ-kheo ni nào nói với tỳ-kheo ni khác rằng: “Đại tỷ, người kia dù có tâm ô nhiễm, nếu mình không có tâm ô nhiễm thì đâu có hại gì. Nếu mình không có tâm ô nhiễm, như người khởi tâm ô nhiễm trao vật thực cho mình, chỉ lấy tâm thanh tịnh mà thọ nhận là được.” Tỳ-kheo ni phạm lần đầu tiên như vậy nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

10. Như có tỳ-kheo ni nào muốn phá hoại sự hòa hiệp của chúng tăng, thực hiện việc phá hoại sự hòa hiệp của chúng tăng, theo các pháp phá hoại sự hòa hiệp của chúng tăng, rồi cố giữ mãi không từ bỏ. Những tỳ-kheo khác nên can ngăn rằng: “Đại tỷ, không nên muốn phá sự hòa hiệp của chúng tăng, không nên thực hiện việc phá hoại sự hòa hiệp của chúng tăng. Không nên theo những pháp phá hoại sự hòa hiệp của chúng tăng rồi cố giữ mãi không từ bỏ. Đại tỷ nên cùng với chúng tăng sống hòa hiệp, vui vẻ, không tranh cãi nhau. Cùng theo học một thầy, nên hòa hợp nhau như sữa hòa trong nước, như vậy mới cùng được thêm phần lợi ích, cùng sống yên vui trong pháp Phật.”

Nếu tỳ-kheo ni ấy nghe lời can ngăn mà vẫn không thay đổi, các tỳ-kheo ni khác nên can ngăn như vậy đến ba lần. Nếu tỳ-kheo ni ấy chịu nghe thì tốt, bằng như can gián đến lần thứ ba mà không chịu nghe theo, nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

11. Như có tỳ-kheo ni có bè đảng, hoặc một người, hoặc hai, ba người cho đến rất nhiều người. Các tỳ-kheo ni bè đảng nói với chúng tỳ-kheo ni rằng: “Đại tỷ, xin đừng can ngăn vị ấy. Vị ấy nói ra đúng Chánh pháp, đúng Giới luật. Những điều vị ấy nói ra làm cho chúng tôi vui thích, có thể chấp nhận được.”

Các vị tỳ-kheo ni nên can ngăn tỳ-kheo ni tán trợ ấy rằng: “Đại tỷ chớ nên nói như thế. Chớ nên nói rằng tỳ-kheo ni ấy nói đúng Chánh pháp, nói đúng Giới luật, nói điều có thể vui thích, chấp nhận được. Thật ra tỳ-kheo ni ấy nói những điều trái Chánh pháp, trái Giới luật. Đại tỷ, xin đừng mong muốn phá hoại sự hòa hiệp của chúng tăng. Chúng ta nên cùng với chúng tăng sống hòa hiệp, vui vẻ, không tranh cãi nhau. Cùng theo học một thầy, nên hòa hợp nhau như sữa hòa trong nước, như vậy mới cùng được thêm phần lợi ích, cùng sống yên vui trong pháp Phật.”

Nếu tỳ-kheo ni sai lầm ấy nghe lời can ngăn mà vẫn không thay đổi, các tỳ-kheo ni khác nên can ngăn như vậy đến ba lần. Nếu tỳ-kheo ni ấy chịu nghe thì tốt, bằng như can gián đến lần thứ ba mà không chịu nghe theo, nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

12. Như có tỳ-kheo ni nào đến ở trong thôn xóm, làm ô uế nhà thiện tín, cùng làm những việc xấu ai ai cũng thấy biết. Các tỳ-kheo ni khác nên can ngăn tỳ-kheo ni ấy rằng: “Đại tỷ làm ô uế nhà thiện tín, cùng làm những việc xấu ai ai cũng thấy biết, nay nên rời bỏ chỗ thôn xóm này, không nên ở đây nữa.”

Tỳ-kheo ni ấy đáp rằng: “Đại tỷ, nay các tỳ-kheo ni đều có yêu, có giận, có sợ, có ngu si; cũng có những tỳ-kheo ni đồng tội như vậy, sao có người lại bị đuổi, có người không bị đuổi.”

Các tỳ-kheo ni khác lại can ngăn rằng: “Đại tỷ không nên nói như vậy. Không nên nói chư tỳ-kheo ni có yêu, có giận, có sợ, có ngu si, có những người đồng tội như vậy, có người bị đuổi, có người không bị đuổi. Quả thật chư tỳ-kheo ni không có yêu, có giận, có sợ, có ngu si. Đại tỷ làm ô uế nhà thiện tín, làm những việc xấu ai ai cũng thấy biết.”

Nếu tỳ-kheo ni sai lầm ấy nghe lời can ngăn mà vẫn không thay đổi, các tỳ-kheo ni khác nên can ngăn như vậy đến ba lần. Nếu tỳ-kheo ni ấy chịu nghe thì tốt, bằng như can gián đến lần thứ ba mà không chịu nghe theo, nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

13. Như có tỳ-kheo ni nào tánh tình xấu ác, với những việc trong giới pháp chẳng chịu nghe lời người khác. Các tỳ-kheo ni khác đã theo đúng pháp mà can ngăn, nhưng tỳ-kheo ni ấy tự thân không nghe, còn nói rằng: “Các vị đại tỷ, xin đừng nói những chuyện tốt xấu của tôi. Tôi cũng không nói những chuyện tốt xấu của các vị. Xin các vị hãy thôi đi, đừng nhiều lần can ngăn tôi như thế.”

Các tỳ-kheo ni khác lại can ngăn rằng: “Đại tỷ, không nên tự mình chẳng chịu nghe lời can ngăn của kẻ khác. Đại tỷ nên biết nghe lời can ngăn. Chúng ta nên theo đúng pháp mà can ngăn lẫn nhau, biết tự nhận lỗi mình mà sám hối, có như vậy thì hết thảy đệ tử của Phật đều được tăng thêm phần lợi ích.”

Nếu tỳ-kheo ni sai lầm ấy nghe lời can ngăn mà vẫn không thay đổi, các tỳ-kheo ni khác nên can ngăn như vậy đến ba lần. Nếu tỳ-kheo ni ấy chịu nghe thì tốt, bằng như can gián đến lần thứ ba mà không chịu nghe theo, nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

14. Như có hai tỳ-kheo ni cùng sống chung với nhau, cùng làm những việc xấu ác, tiếng xấu lan rộng khắp nơi, lại tìm cách che giấu tội lỗi cho nhau. Chư tỳ-kheo ni khác nên can ngăn rằng: “Các đại tỷ, xin đừng sống chung với nhau, cùng làm những việc xấu ác, tiếng xấu lan rộng khắp nơi, lại tìm cách che giấu tội lỗi cho nhau. Các vị nếu không sống chung nhau như vậy mới cùng được thêm phần lợi ích, cùng sống yên vui trong pháp Phật.”

Nếu hai tỳ-kheo ni sai lầm ấy nghe lời can ngăn, mà vẫn không thay đổi, các tỳ-kheo ni khác nên can ngăn như vậy đến ba lần. Nếu tỳ-kheo ni ấy chịu nghe thì tốt, bằng như can gián đến lần thứ ba mà không chịu nghe theo, nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

15. Như có tỳ-kheo ni nào, đối với hai tỳ-kheo ni phạm tội đã bị chúng tăng phạt biệt trụ, nói lời như thế này: “Các vị không cần phải sống cách biệt như thế, nên sống chung với nhau. Tôi thấy có những tỳ-kheo ni khác không sống cách biệt, cũng sống chung thân cận nhau, cũng cùng làm những việc xấu ác, tiếng xấu lan rộng khắp nơi, lại tìm cách che giấu tội lỗi cho nhau. Chúng tăng vì giận ghét nên mới buộc các vị phải sống cách biệt đó thôi.”

Các tỳ-kheo ni khác nên can ngăn rằng: “Đại tỷ, xin đừng nói như vậy với các tỳ-kheo ni ấy. Thật chỉ có hai tỳ-kheo ni ấy sống chung nhau, cùng làm những việc xấu ác, tiếng xấu lan rộng khắp nơi, lại tìm cách che giấu tội lỗi cho nhau, ngoài ra chẳng còn ai khác phạm tội như vậy. Nếu hai tỳ-kheo ni ấy sống cách biệt, mới cùng được thêm phần lợi ích, cùng sống yên vui trong pháp Phật.”

Nếu tỳ-kheo ni sai lầm ấy nghe lời can ngăn mà vẫn không thay đổi, các tỳ-kheo ni khác nên can ngăn như vậy đến ba lần. Nếu tỳ-kheo ni ấy chịu nghe thì tốt, bằng như can gián đến lần thứ ba mà không chịu nghe theo, nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

16. Như có tỳ-kheo ni nào, vì một nguyên nhân nhỏ, sanh lòng giận tức không vui, nói rằng: “Tôi nay bỏ chẳng theo Phật, chẳng theo Pháp, chẳng theo Tăng. Chẳng phải chỉ riêng có một đạo Phật, còn có những đạo khác cũng tu hành giữ hạnh trong sạch. Tôi nay có thể theo các đạo ấy.”

Các vị tỳ-kheo ni nên can ngăn rằng: “Đại tỷ, không nên vì một chuyện nhỏ, sanh lòng giận tức không vui mà nói ra lời như vậy.”

Nếu tỳ-kheo ni sai lầm ấy nghe lời can ngăn mà vẫn không thay đổi, các tỳ-kheo ni khác nên can ngăn như vậy đến ba lần. Nếu tỳ-kheo ni ấy chịu nghe thì tốt, bằng như can gián đến lần thứ ba mà không chịu nghe theo, nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

17. Như có tỳ-kheo ni nào tánh tình ưa gây gổ tranh chấp không tốt, sau ghi nhớ lấy sự tranh chấp ấy, sanh lòng sân hận, nói ra lời này: “Chúng tăng có yêu, có giận, có sợ, có ngu si.”

Các vị tỳ-kheo ni nên can ngăn rằng: “Đại tỷ tánh tình ưa gây gổ tranh chấp không tốt, sau ghi nhớ lấy sự tranh chấp ấy, lại nói rằng chúng tăng có yêu, có giận, có sợ, có ngu si. Thật ra chúng tăng không có yêu, có giận, có sợ, có ngu si.”

Nếu tỳ-kheo ni sai lầm ấy nghe lời can ngăn mà vẫn không thay đổi, các tỳ-kheo ni khác nên can ngăn như vậy đến ba lần. Nếu tỳ-kheo ni ấy chịu nghe thì tốt, bằng như can gián đến lần thứ ba mà không chịu nghe theo, nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

_ Kính bạch chư đại tỷ. Tôi đã thuyết xong mười bảy pháp tăng-già bà-thi-sa. Chín pháp đầu là phạm vào thành tội ngay, tám pháp sau là qua ba lần can ngăn mới thành tội. Như có tỳ-kheo ni nào phạm vào một trong các pháp tăng-già bà-thi-sa này, phải đối trước hai bộ chúng tăng và ni mà thực hành phép cấm phòng trong nửa tháng. Sau đó, phải làm nghi thức xuất tội, có sự tham dự của ít nhất là 40 vị tỳ-kheo và tỳ-kheo ni thanh tịnh. Nếu không đủ số 40 vị tỳ-kheo và tỳ-kheo ni thanh tịnh mà làm nghi thức xuất tội, thì tội ấy chẳng những không được tiêu trừ, mà các vị tham gia cũng đáng quở trách.

Với mười bảy pháp tăng-già bà-thi-sa này, xin hỏi chư đại tỷ, trong chúng đây có được thanh tịnh hay chăng?

Người thuyết giới lập lại câu hỏi này ba lần. Nếu có ai nhớ ra mình đã phạm vào các giới này thì phải tự nhận. Nếu không thì tất cả đều yên lặng.

_ Kính bạch chư đại tỷ, vì các vị đều lặng yên, nên xem như trong chúng đây hết thảy đều thanh tịnh. Việc này xin được hiểu như vậy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15758)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11056)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53615)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12955)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16510)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15384)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19149)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19918)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15544)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15338)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15139)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20313)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23915)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15463)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13016)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20072)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13268)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29010)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11686)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18269)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16639)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13226)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12793)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13235)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12963)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12857)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 12999)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13534)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11703)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14219)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17715)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22575)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13434)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14321)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105727)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14592)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19760)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38408)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15513)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34667)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 16046)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11317)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15642)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 14018)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12821)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13692)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12487)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19362)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 26997)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13105)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13458)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21581)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17953)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21863)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14194)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16056)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 16106)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19084)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24763)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant