Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

III. Mười bảy pháp Tăng-Già Bà-thi-sa

02 Tháng Ba 201100:00(Xem: 13006)
III. Mười bảy pháp Tăng-Già Bà-thi-sa

TĂNG ĐỒ NHÀ PHẬT (HÁN VIỆT)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

GIỚI LUẬT TỲ-KHEO NI

III. MƯỜI BẢY PHÁP TĂNG-GIÀ BÀ-THI-SA

_ Kính bạch chư đại tỷ tăng. Mười bảy pháp tăng-già bà-thi-sa này, nửa tháng phải tụng đọc một lần, được rút từ trong Giới kinh ra.

1. Như có tỳ-kheo ni nào đi lại làm môi giới giữa đôi bên trai gái, chuyển lời qua lại giữa đôi bên, hoặc sau thành chồng vợ, hoặc chỉ dan díu cùng nhau, dù là thoáng chốc. Tỳ-kheo ni phạm lần đầu tiên như vậy nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

2. Như có tỳ-kheo ni nào, vì sự giận tức không vui, vô cớ vu cáo cho người khác là phạm tội ba-la-di, vì muốn hủy hoại sự trong sạch của người ấy. Thời gian sau, hoặc có người hỏi hoặc không có người hỏi, tỳ-kheo ni ấy tự biết mình vô cớ vu cáo nên nói ra rằng: “Điều ấy là do tôi tức giận mà nói như vậy thôi.” Tỳ-kheo ni phạm lần đầu tiên như vậy nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

3. Như có tỳ-kheo nào, vì sự giận tức không vui, dựa vào những căn cứ mà tự mình biết là sai lệch, không đúng, để vu cáo cho người khác là phạm tội ba-la-di, vì muốn hủy hoại sự trong sạch của người ấy. Thời gian sau, hoặc có người hỏi hoặc không có người hỏi, tỳ-kheo ni ấy tự biết mình đã dựa vào những chứng cứ sai lệch, không đúng, nên nói ra rằng: “Điều ấy là do tôi tức giận mà nói như vậy thôi.” Tỳ-kheo ni phạm lần đầu tiên như vậy nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

4. Như có tỳ-kheo ni nào tự đến cửa quan mà thưa kiện, tranh chấp với một người thế tục, hoặc con cái, người hầu... của người thế tục, dù là vì chuyện gì, dù là vào lúc nào. Tỳ-kheo ni phạm lần đầu tiên như vậy nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

5. Như có tỳ-kheo ni nào biết người nữ phạm tội đáng chết, mọi người đều rõ. Biết như vậy mà không đến hỏi trước nơi quan chức, không tra xét trong dòng họ, lại độ cho người nữ ấy xuất gia thọ cụ túc giới. Tỳ-kheo ni phạm lần đầu tiên như vậy nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

6. Như có tỳ-kheo ni nào biết tỳ-kheo ni khác phạm giới, chúng tăng đã theo đúng pháp, đúng luật, đúng lời Phật dạy chỉ bảo cho mà không chịu nghe theo, không chịu sám hối. Chúng tăng vì thế chưa cho phép người ấy được cùng ở chung. Tỳ-kheo ni tuy biết như vậy, mà vì lòng ái luyến nên không thưa hỏi chúng tăng, chúng tăng cũng không sai khiến, lại tự ý làm phép yết-ma giải tội cho tỳ-kheo ni kia. Tỳ-kheo ni phạm lần đầu tiên như vậy nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

7. Như có tỳ-kheo ni nào, đi một mình vượt qua dòng nước, hoặc một mình vào trong thôn xóm, hoặc ngủ đêm một mình, hoặc một mình đi sau tất cả mọi người. Tỳ-kheo ni phạm lần đầu tiên như vậy nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

8. Như có tỳ-kheo ni nào, khởi tâm ô nhiễm, biết một người nam cũng khởi tâm ô nhiễm, nhận lãnh vật thực, đồ dùng từ người ấy. Tỳ-kheo ni phạm lần đầu tiên như vậy nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

9. Như có tỳ-kheo ni nào nói với tỳ-kheo ni khác rằng: “Đại tỷ, người kia dù có tâm ô nhiễm, nếu mình không có tâm ô nhiễm thì đâu có hại gì. Nếu mình không có tâm ô nhiễm, như người khởi tâm ô nhiễm trao vật thực cho mình, chỉ lấy tâm thanh tịnh mà thọ nhận là được.” Tỳ-kheo ni phạm lần đầu tiên như vậy nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

10. Như có tỳ-kheo ni nào muốn phá hoại sự hòa hiệp của chúng tăng, thực hiện việc phá hoại sự hòa hiệp của chúng tăng, theo các pháp phá hoại sự hòa hiệp của chúng tăng, rồi cố giữ mãi không từ bỏ. Những tỳ-kheo khác nên can ngăn rằng: “Đại tỷ, không nên muốn phá sự hòa hiệp của chúng tăng, không nên thực hiện việc phá hoại sự hòa hiệp của chúng tăng. Không nên theo những pháp phá hoại sự hòa hiệp của chúng tăng rồi cố giữ mãi không từ bỏ. Đại tỷ nên cùng với chúng tăng sống hòa hiệp, vui vẻ, không tranh cãi nhau. Cùng theo học một thầy, nên hòa hợp nhau như sữa hòa trong nước, như vậy mới cùng được thêm phần lợi ích, cùng sống yên vui trong pháp Phật.”

Nếu tỳ-kheo ni ấy nghe lời can ngăn mà vẫn không thay đổi, các tỳ-kheo ni khác nên can ngăn như vậy đến ba lần. Nếu tỳ-kheo ni ấy chịu nghe thì tốt, bằng như can gián đến lần thứ ba mà không chịu nghe theo, nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

11. Như có tỳ-kheo ni có bè đảng, hoặc một người, hoặc hai, ba người cho đến rất nhiều người. Các tỳ-kheo ni bè đảng nói với chúng tỳ-kheo ni rằng: “Đại tỷ, xin đừng can ngăn vị ấy. Vị ấy nói ra đúng Chánh pháp, đúng Giới luật. Những điều vị ấy nói ra làm cho chúng tôi vui thích, có thể chấp nhận được.”

Các vị tỳ-kheo ni nên can ngăn tỳ-kheo ni tán trợ ấy rằng: “Đại tỷ chớ nên nói như thế. Chớ nên nói rằng tỳ-kheo ni ấy nói đúng Chánh pháp, nói đúng Giới luật, nói điều có thể vui thích, chấp nhận được. Thật ra tỳ-kheo ni ấy nói những điều trái Chánh pháp, trái Giới luật. Đại tỷ, xin đừng mong muốn phá hoại sự hòa hiệp của chúng tăng. Chúng ta nên cùng với chúng tăng sống hòa hiệp, vui vẻ, không tranh cãi nhau. Cùng theo học một thầy, nên hòa hợp nhau như sữa hòa trong nước, như vậy mới cùng được thêm phần lợi ích, cùng sống yên vui trong pháp Phật.”

Nếu tỳ-kheo ni sai lầm ấy nghe lời can ngăn mà vẫn không thay đổi, các tỳ-kheo ni khác nên can ngăn như vậy đến ba lần. Nếu tỳ-kheo ni ấy chịu nghe thì tốt, bằng như can gián đến lần thứ ba mà không chịu nghe theo, nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

12. Như có tỳ-kheo ni nào đến ở trong thôn xóm, làm ô uế nhà thiện tín, cùng làm những việc xấu ai ai cũng thấy biết. Các tỳ-kheo ni khác nên can ngăn tỳ-kheo ni ấy rằng: “Đại tỷ làm ô uế nhà thiện tín, cùng làm những việc xấu ai ai cũng thấy biết, nay nên rời bỏ chỗ thôn xóm này, không nên ở đây nữa.”

Tỳ-kheo ni ấy đáp rằng: “Đại tỷ, nay các tỳ-kheo ni đều có yêu, có giận, có sợ, có ngu si; cũng có những tỳ-kheo ni đồng tội như vậy, sao có người lại bị đuổi, có người không bị đuổi.”

Các tỳ-kheo ni khác lại can ngăn rằng: “Đại tỷ không nên nói như vậy. Không nên nói chư tỳ-kheo ni có yêu, có giận, có sợ, có ngu si, có những người đồng tội như vậy, có người bị đuổi, có người không bị đuổi. Quả thật chư tỳ-kheo ni không có yêu, có giận, có sợ, có ngu si. Đại tỷ làm ô uế nhà thiện tín, làm những việc xấu ai ai cũng thấy biết.”

Nếu tỳ-kheo ni sai lầm ấy nghe lời can ngăn mà vẫn không thay đổi, các tỳ-kheo ni khác nên can ngăn như vậy đến ba lần. Nếu tỳ-kheo ni ấy chịu nghe thì tốt, bằng như can gián đến lần thứ ba mà không chịu nghe theo, nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

13. Như có tỳ-kheo ni nào tánh tình xấu ác, với những việc trong giới pháp chẳng chịu nghe lời người khác. Các tỳ-kheo ni khác đã theo đúng pháp mà can ngăn, nhưng tỳ-kheo ni ấy tự thân không nghe, còn nói rằng: “Các vị đại tỷ, xin đừng nói những chuyện tốt xấu của tôi. Tôi cũng không nói những chuyện tốt xấu của các vị. Xin các vị hãy thôi đi, đừng nhiều lần can ngăn tôi như thế.”

Các tỳ-kheo ni khác lại can ngăn rằng: “Đại tỷ, không nên tự mình chẳng chịu nghe lời can ngăn của kẻ khác. Đại tỷ nên biết nghe lời can ngăn. Chúng ta nên theo đúng pháp mà can ngăn lẫn nhau, biết tự nhận lỗi mình mà sám hối, có như vậy thì hết thảy đệ tử của Phật đều được tăng thêm phần lợi ích.”

Nếu tỳ-kheo ni sai lầm ấy nghe lời can ngăn mà vẫn không thay đổi, các tỳ-kheo ni khác nên can ngăn như vậy đến ba lần. Nếu tỳ-kheo ni ấy chịu nghe thì tốt, bằng như can gián đến lần thứ ba mà không chịu nghe theo, nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

14. Như có hai tỳ-kheo ni cùng sống chung với nhau, cùng làm những việc xấu ác, tiếng xấu lan rộng khắp nơi, lại tìm cách che giấu tội lỗi cho nhau. Chư tỳ-kheo ni khác nên can ngăn rằng: “Các đại tỷ, xin đừng sống chung với nhau, cùng làm những việc xấu ác, tiếng xấu lan rộng khắp nơi, lại tìm cách che giấu tội lỗi cho nhau. Các vị nếu không sống chung nhau như vậy mới cùng được thêm phần lợi ích, cùng sống yên vui trong pháp Phật.”

Nếu hai tỳ-kheo ni sai lầm ấy nghe lời can ngăn, mà vẫn không thay đổi, các tỳ-kheo ni khác nên can ngăn như vậy đến ba lần. Nếu tỳ-kheo ni ấy chịu nghe thì tốt, bằng như can gián đến lần thứ ba mà không chịu nghe theo, nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

15. Như có tỳ-kheo ni nào, đối với hai tỳ-kheo ni phạm tội đã bị chúng tăng phạt biệt trụ, nói lời như thế này: “Các vị không cần phải sống cách biệt như thế, nên sống chung với nhau. Tôi thấy có những tỳ-kheo ni khác không sống cách biệt, cũng sống chung thân cận nhau, cũng cùng làm những việc xấu ác, tiếng xấu lan rộng khắp nơi, lại tìm cách che giấu tội lỗi cho nhau. Chúng tăng vì giận ghét nên mới buộc các vị phải sống cách biệt đó thôi.”

Các tỳ-kheo ni khác nên can ngăn rằng: “Đại tỷ, xin đừng nói như vậy với các tỳ-kheo ni ấy. Thật chỉ có hai tỳ-kheo ni ấy sống chung nhau, cùng làm những việc xấu ác, tiếng xấu lan rộng khắp nơi, lại tìm cách che giấu tội lỗi cho nhau, ngoài ra chẳng còn ai khác phạm tội như vậy. Nếu hai tỳ-kheo ni ấy sống cách biệt, mới cùng được thêm phần lợi ích, cùng sống yên vui trong pháp Phật.”

Nếu tỳ-kheo ni sai lầm ấy nghe lời can ngăn mà vẫn không thay đổi, các tỳ-kheo ni khác nên can ngăn như vậy đến ba lần. Nếu tỳ-kheo ni ấy chịu nghe thì tốt, bằng như can gián đến lần thứ ba mà không chịu nghe theo, nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

16. Như có tỳ-kheo ni nào, vì một nguyên nhân nhỏ, sanh lòng giận tức không vui, nói rằng: “Tôi nay bỏ chẳng theo Phật, chẳng theo Pháp, chẳng theo Tăng. Chẳng phải chỉ riêng có một đạo Phật, còn có những đạo khác cũng tu hành giữ hạnh trong sạch. Tôi nay có thể theo các đạo ấy.”

Các vị tỳ-kheo ni nên can ngăn rằng: “Đại tỷ, không nên vì một chuyện nhỏ, sanh lòng giận tức không vui mà nói ra lời như vậy.”

Nếu tỳ-kheo ni sai lầm ấy nghe lời can ngăn mà vẫn không thay đổi, các tỳ-kheo ni khác nên can ngăn như vậy đến ba lần. Nếu tỳ-kheo ni ấy chịu nghe thì tốt, bằng như can gián đến lần thứ ba mà không chịu nghe theo, nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

17. Như có tỳ-kheo ni nào tánh tình ưa gây gổ tranh chấp không tốt, sau ghi nhớ lấy sự tranh chấp ấy, sanh lòng sân hận, nói ra lời này: “Chúng tăng có yêu, có giận, có sợ, có ngu si.”

Các vị tỳ-kheo ni nên can ngăn rằng: “Đại tỷ tánh tình ưa gây gổ tranh chấp không tốt, sau ghi nhớ lấy sự tranh chấp ấy, lại nói rằng chúng tăng có yêu, có giận, có sợ, có ngu si. Thật ra chúng tăng không có yêu, có giận, có sợ, có ngu si.”

Nếu tỳ-kheo ni sai lầm ấy nghe lời can ngăn mà vẫn không thay đổi, các tỳ-kheo ni khác nên can ngăn như vậy đến ba lần. Nếu tỳ-kheo ni ấy chịu nghe thì tốt, bằng như can gián đến lần thứ ba mà không chịu nghe theo, nên cách ly khỏi chúng tăng, là tội tăng-già bà-thi-sa.

_ Kính bạch chư đại tỷ. Tôi đã thuyết xong mười bảy pháp tăng-già bà-thi-sa. Chín pháp đầu là phạm vào thành tội ngay, tám pháp sau là qua ba lần can ngăn mới thành tội. Như có tỳ-kheo ni nào phạm vào một trong các pháp tăng-già bà-thi-sa này, phải đối trước hai bộ chúng tăng và ni mà thực hành phép cấm phòng trong nửa tháng. Sau đó, phải làm nghi thức xuất tội, có sự tham dự của ít nhất là 40 vị tỳ-kheo và tỳ-kheo ni thanh tịnh. Nếu không đủ số 40 vị tỳ-kheo và tỳ-kheo ni thanh tịnh mà làm nghi thức xuất tội, thì tội ấy chẳng những không được tiêu trừ, mà các vị tham gia cũng đáng quở trách.

Với mười bảy pháp tăng-già bà-thi-sa này, xin hỏi chư đại tỷ, trong chúng đây có được thanh tịnh hay chăng?

Người thuyết giới lập lại câu hỏi này ba lần. Nếu có ai nhớ ra mình đã phạm vào các giới này thì phải tự nhận. Nếu không thì tất cả đều yên lặng.

_ Kính bạch chư đại tỷ, vì các vị đều lặng yên, nên xem như trong chúng đây hết thảy đều thanh tịnh. Việc này xin được hiểu như vậy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15013)
Đại chánh tân tu số 0070, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13447)
Đại chánh tân tu số 0068, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15133)
Đại chánh tân tu số 0069, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16499)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 13217)
Đại chánh tân tu số 0067, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12588)
Đại chánh tân tu số 0066, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13467)
Đại chánh tân tu số 0065, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13423)
Đại chánh tân tu số 0064, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12772)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 12076)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11976)
Đại chánh tân tu số 0062, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12649)
Đại chánh tân tu số 0061, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11478)
Đại chánh tân tu số 0060, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11783)
Đại chánh tân tu số 0059, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11158)
Đại chánh tân tu số 0058, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13281)
Đại chánh tân tu số 0057, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13165)
Đại chánh tân tu số 0056, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11590)
Đại chánh tân tu số 0055, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12171)
Đại chánh tân tu số 0054, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12358)
Đại chánh tân tu số 0052, Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11954)
Đại chánh tân tu số 0051, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12751)
Đại chánh tân tu số 0050, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12372)
Đại chánh tân tu số 0048, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12204)
Đại chánh tân tu số 0047, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12263)
Đại chánh tân tu số 0046, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12010)
Đại chánh tân tu số 0045, Hán dịch: Pháp Hiền, Thí Quang Lộc Khanh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11956)
Đại chánh tân tu số 0044, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11230)
Đại chánh tân tu số 0043, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11374)
Đại chánh tân tu số 0042, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12379)
Đại chánh tân tu số 0041, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12468)
Đại chánh tân tu số 0040, Hán dịch: Ðàm Vô Sấm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11999)
Đại chánh tân tu số 0039, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12966)
Đại chánh tân tu số 0038, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12048)
Đại chánh tân tu số 0037, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12604)
Đại chánh tân tu số 0036, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13016)
Đại chánh tân tu số 0035, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13945)
Đại chánh tân tu số 0034, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12740)
Đại chánh tân tu số 0033, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14875)
Đại chánh tân tu số 0032, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11929)
Đại chánh tân tu số 0031, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12192)
Đại chánh tân tu số 0030, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12884)
Đại chánh tân tu số 0029, Hán dịch khuyết danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12774)
Đại chánh tân tu số 0028, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14770)
Đại chánh tân tu số 0027, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12751)
Đại chánh tân tu số 0022, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15394)
Đại chánh tân tu số 0021, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12581)
Đại chánh tân tu số 0020, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13219)
Đại chánh tân tu số 0018, Hán dịch: Pháp Thiên; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14248)
Đại chánh tân tu số 0017, Hán dịch: Chi Pháp Ðộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15550)
Đại chánh tân tu số 0016, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13746)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13141)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13572)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12488)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12092)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12898)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 12987)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13218)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21338)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143674)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant