Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phụ lục : Phác Họa về những Thực Hành Yoga Giấc Mộng

26 Tháng Tư 201100:00(Xem: 14116)
Phụ lục : Phác Họa về những Thực Hành Yoga Giấc Mộng

NHỮNG YOGA TÂY TẠNG VỀ GIẤC MỘNG VÀ GIẤC NGỦ

Nguyên tác: The Tibetan Yogas of Dream and Sleep
Nhà Xuất Bản Snow Lion Ithaca, New York, 1998
Việt dịch: Đương Đạo - Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 2000

Phụ lục
Phác Họa về những Thực Hành Yoga Giấc Mộng

BỐN THỰC HÀNH CĂN BẢN

Thay Đổi những Dấu Vết Nghiệp

Suốt ngày, hãy liên tục ở trong tỉnh giác rằng mọi kinh nghiệm đều là một giấc mộng. Hãy gặp gỡ mọi sự như những đối tượng trong một giấc mộng, mọi biến cố như những biến cố trong một giấc mộng, mọi người như những người trong một giấc mộng. Hãy thấy thân thể chính bạn như là một thân thể trong suốt như huyễn. Hãy tưởng tượng bạn đang trong một giấc mộng minh bạch suốt trọn ngày. Chớ để cho những nhắc nhở này chỉ là sự lập lại trống rỗng. Mỗi khi bạn tự nói với mình, “Đây là một giấc mộng”, hãy thực sự trở nên minh bạch hơn. Hãy đưa thân thể và những giác quan của bạn thành tỉnh thức, hiện diện hơn.

Dẹp bỏ Bám chấp và Ghét bỏ

Hãy gặp tất cả mọi sự tạo nên tham muốnluyến ái như là những hình tướng trống không, như huyễnsáng tỏ của một giấc mộng. Hãy nhận biết những phản ứng với những hiện tượng của bạn là một giấc mộng ; mọi xúc tình, phê phán và yêu chuộng được tạo từ trong mộng. Bạn có thể chắc chắn rằng bạn đang làm điều này một cách đúng đắn nếu khi tức khắc nhớ rằng phản ứng của bạn là một giấc mộng, thì tham muốnluyến ái giảm nhẹ.

Làm mạnh Ý Định

Trước khi đi ngủ, hãy ôn lại chuyện ban ngày và suy nghĩ sự thực hành đã như thế nào. Hãy để những ký ức về ban ngày khởi lên và nhận biết chúng như những ký ức của giấc mộng. Hãy phát triển một quyết tâm mạnh mẽ tỉnh thức được trong những giấc mộng ban đêm sắp tới. Hãy đặt toàn tâm vào ý định này và cầu nguyện mạnh mẽ cho sự thành công.

Trau dồi Trí nhớ và sự Nỗ lực Hoan Hỷ

Hãy bắt đầu ngày với ý định mạnh mẽ duy trì sự thực hành. Ôn lại ban đêm, phát triển hạnh phúc nếu bạn đã nhớ lại hay đã minh bạch trong những giấc mộng. Tự cam kết với chính mình liên tục thực hành, với ý định trở nên minh bạch sáng sủa nếu bạn đã như vậy. Vào lúc nào trong ngày hay tối đều tốt để cầu nguyện cho sự thành công trong thực hành. Hãy phát sanh ý định càng mạnh mẽ càng mạnh càng tốt. Đây là chìa khóa cho sự thực hành.

NHỮNG THỰC HÀNH CHUẨN BỊ TRƯỚC GIẤC NGỦ

Chín Hơi thở Tịnh hóa

Ngồi trong tư thế thiền định trước khi nằm xuống ngủ, hãy làm chín hơi thở tịnh hóa.

Guru Yoga

Hãy thực hành guru yoga. Hãy phát sinh sùng mộ mạnh mẽ, rồi hòa lẫn tâm thức của bạn với tánh giác thanh tịnh của đạo sư, đạo sư tối hậu, đó là tánh giác bổn nguyên, bản tánh chân thật của bạn.

Che chở

Nằm xuống trong tư thế đúng, đàn ông bên phải, đàn bà bên trái. Hãy quán tưởng những dakini bao quanh bạn, che chở bạn. Hãy dùng tưởng tượng để chuyển biến cái phòng thành một môi trường linh thiêng, được che chở. Hãy làm nhẹ hơi thở bạn và làm bình an tâm thức bạn, quan sátcho đến khi bạn thư giãn và hiện diện, không bị vướng vào những câu chuyện và những mộng tưởng. Hãy tạo ra một ý định mạnh mẽ để có được những giấc mộng sáng tỏ, sống động, để nhớ lại những giấc mộng và để nhận biết giấc mộng là mộng khi bạn đang ở trong nó.

NHỮNG THỰC HÀNH CHÍNH YẾU

Đem Tỉnh giác vào Kinh mạch Trung ương

Sự thực hành của phần đầu tiên trong đêm. Tập chú vào trung tâm cổ họng, vào chữ A thanh tịnh, sáng rỡ, như pha lê nhuốm màu đỏ từ màu của bốn cánh hoa sen đỏ mà chữ A ở trên đó. Hãy hòa lẫn với ánh sáng đỏ.

Tăng cường sự Sáng tỏ

Khoảng hai giờ sáng, hãy thức dậy. Cũng trong tư thế sư tử, hãy thực hành thở bảy lần. Hãy tập chú vào tiglé màu trắng trong luân xa giữa hai lông mày khi bạn rơi vào giấc ngủ. Để cho ánh sáng trắng hòa tan mọi sự, cho đến khi bạn và ánh sáng là một.

Làm mạnh sự Hiện diện

Khoảng hai giờ nữa, lại thức dậy. Nằm nghỉ trên một cái gối cao, hai chân hơi xếp lại và thoải mái. Hãy tập chú vào chữ HUNG màu đen trong trung tâm trái tim. Hãy thở sâu, đầy và nhẹ nhàng hai mươi mốt lần. Hãy trộn lẫn với chữ HUNG màu đen và ngủ.

Phát triển sự Không Sợ hãi

Hai giờ sau nữa, lại thức dậy. Không cần tư thế hay hơi thở theo lối riêng biệt. Hãy tập chú vào một tiglé màu đen, sáng rỡ trong luân xa bí mật, ở sau bộ phận sinh dục. Đi vào giấc ngủ khi hòa lẫn với ánh sáng màu đen.

Khi mỗi lần thức dậy cố gắng hiện diện và ở trong thực hành. Vào buổi sáng, lần thức dậy cuối cùng của đêm, hãy tức thì hiện diện. Ôn lại ban đêm, hãy phát sinh những ý định, và tiếp tục với thực hành qua suốt ngày.

Thêm nữa, có ích lợi khi dành thì giờ thực hành an định (samatha) trong ngày. Điều này sẽ giúp cho tâm thức tĩnh lặng và tập chú và sẽ làm lợi cho mọi thực hành khác.

Điểm quan trọng nhất của cả hai thực hành chuẩn bị và thực hành chính là duy trì sự hiện diện càng bền bỉ càng tốt suốt cả ngày đêm. Đây là tinh túy của yoga giấc mộng và yoga giấc ngủ.

Thuật Ngữ

bardo (TT, bardo ; Skt, antarabhava). Bardo, trung ấm nghĩa là “trạng thái ở giữa” và ám chỉ trạng thái bất kỳ nào của hiện hữuđời sống, thiền định, giấc mộng, chết – nhưng thường nhất là ám chỉ trạng thái trung gian giữa cái chết và sự tái sanh.

báo thân (TT, longs sku ; Skt, Sambhogakaya). “Thân hưởng thọ” của một vị Phật. Báo thân là một thân hoàn toàn làm bằng ánh sáng. Hình tướng của nó thường được quán tưởng trong những thực hành kinh thừa và mật thừa. Trong Đại Toàn Thiện, pháp thân được quán tưởng thường hơn.

Bošn. Bošn là một truyền thống tâm linh địa phương của Tây Tạng có trước Phật giáo Ấn Độ. Dù những học giả không đồng ý với nhau về nguồn gốc đạo Bošn, thì bản thân truyền thống tuyên bố có một dòng truyền không đứt đoạn là mười bảy ngàn năm. Tương tự với những phái Phật giáo Tây Tạng, đặc biệt là với Nyingma, Bošn đặc trưng bởi một hệ thống tranh tượng riêng, một truyền thống chú thuật phong phú, và một dòng riêng biệt phát nguồn từ Phật Sherab Miwoche hơn là từ Phật Thích Ca.

Chín thừa của Bošn chứa đựng những giáo lý về những chủ đề thực dụng, như văn phạm, thiên văn, y học, chẩn bệnh, bình định những hồn linh v.v... cũng như những giáo lý về luận lý, ngữ nguyên học, siêu hình học, những mức độ khác nhau của tantra, và những dòng trọn vẹn về Đại Toàn Thiện (Dzogchen).

chakra (TT, khor-lo ; Skt, cakra). Nghĩa đen là “bánh xe” hay “vòng tròn”, tiếng Hán Việt là luân xa. Luân xa là để chỉ những trung tâm năng lực trong thân thể. Một luân xa là một nơi chốn ở đó một số kinh mạch năng lực gặp gỡ. Những hệ thống thiền định khác nhau làm việc với những luân xa khác nhau.

chošd (TT, gcod). Nghĩa đen “cắt đứt” hay “cắt xuyên qua”. Cũng được biết như “cách dùng sự sợ hãi” và “trau dồi lòng bố thí”, chošd là một thực hành nghi lễ nhằm dẹp trừ mọi bám luyến vào thân thểbản ngã của mình bằng cách cúng dường với lòng bi mẫn mọi thứ ấy cho những chúng sanh khác. Để làm được điều đó, sự thực hành bao gồm một sự kêu cầu những loại chúng sanh khác nhau và trí tưởng tượng cắt chia và chuyển hóa thân thể của hành giả thành những vật để cúng dường. Chošd dùng sự ca hát du dương, trống, chuông, tù và và thường được thực hành ở những nơi kích thích sợ hãi, như nghĩa địa, hay những đèo núi vắng vẻ.

dakini (TT, mkha’ gro ma). Chữ tương đương của Tây Tạng là khadroma, nghĩa đen là người nữ du hành trên trời. “Trời” ám chỉ tánh không, và dakini du hành trong tánh không; nghĩa là, bà hành động trong sự chứng ngộ viên mãn về tánh không, thực tại tuyệt đối. Một dakini có thể là một phụ nữ thuộc nhân loại, đã chứng ngộ bản tánh chân thật của mình, hay một phụ nữ phi nhân loại hay thiên nữ, hay một sự biểu lộ trực tiếp của tâm giác ngộ. Dakini cũng ám chỉ một loại chúng sanh sinh ra trong cõi thanh tịnh của những dakini.

dấu vết nghiệp (TT, bag chags). Mỗi hành động – thân, khẩu, ý – nếu được thực hiện với ý định và dù với sự ghét bỏ hay bám lấy nhỏ nhất, đều để lại dấu vết trong dòng tâm thức của cá nhân. Sự tích tập những dấu vết nghiệp này quy định, điều kiện hóa mỗi khoảnh khắc của kinh nghiệm của cá nhân đó, cả tích cực lẫn tiêu cực.

Dzogchen. Đại Toàn Thiện hay “đại thành tựu”. Dzogchen được xem là giáo lýthực hành cao nhất của cả Bošn và phái Nyingma của Phật giáo Tây Tạng. Nguyên lý nền tảng của nó là: thực tại, bao gồm cá nhân, thì vốn đã thành tựuhoàn thiện, không có cái gì cần phải chuyển hóa (như trong tantra) hay từ bỏ (như trong sutra, kinh) mà chỉ nhận biết nó thực sự là cái gì. Sự thực hành chủ yếu của Dzogchen là “tự giải thoát”: cho phép mọi cái khởi lên trong kinh nghiệm hiện hữu như nó là, không có sự tạo tác bởi tâm thức ý niệm, không bám lấy hay ghét bỏ.

gong-ter. Trong văn hóa tây tạng có một truyền thống terma : những đồ vật thiêng liêng, những bản văn hay giáo lý được cất giấu bởi các đạo sư trong một thời đại cho sự lợi lạc của thời đại tương lai khi những terma được tìm ra. Những đạo sư khám phá ra terma (kho tàng) được gọi là những terton, người khám phá kho tàng. Terma có thể ở trong những nơi chốn vật chất như hang động hay nghĩa địa ; trong những nguyên tố như nước, gỗ, đất hay không gian; hay nhận được trong những giấc mộng, trong linh kiến và trực tiếp trong những mức độ sâu của tâm thức. Trường hợp sau được biết như là gong ter: kho tàng tâm.

hóa thân (TT, sprul sku; Skt, nirmanakaya). Hóa thân là thân xuất hóa của pháp thân. Thường thườngám chỉ sự biểu lộ vật chất, thấy được của một vị Phật.

hộ pháp (TT, srung ma/ chos skyong ; Skt, dharmapala). Những hộ pháp là những vị nam hay nữ cam kết bảo vệ Pháp (những giáo lý) và những hành giả của giáo lý. Họ có thể là những người bảo vệ thuộc thế gian hay những biểu lộ hung nộ của các bậc giác ngộ. Những hành giả mật thừa thường làm vừa lòng và nương dựa vào hộ pháp của dòng mình.

jalus. Thân cầu vồng. Dấu hiệu của sự chứng ngộ toàn triệt trong Đại Toàn Thiện là sự đạt đến thân cầu vồng. Những hành giả Đại Toàn Thiện chứng đắc, vì không còn mê lầm bởi hình tướng bề ngoài cho là có thật hay bởi nhị nguyên như tâm và vật, giải phóng năng lực của các nguyên tố tạo thành thân vật chất vào lúc chết. Thân thể tan biến, chỉ để lại tóc và móng tay chân, và hành giả đi vào cái chết một cách có ý thức.

kinh mạch (TT, tsa; Skt, nadi). Những kinh mạch là những “mạch” trong hệ thống tuần hoàn của khí trong thân thể, qua chúng những dòng năng lực vi tế chảy để duy trì và làm sống động đời sống. Bản thân những kinh mạch thuộc về năng lực và không thể tìm thấy trong mặt thể xác. Tuy nhiên, qua thực hành hay nhạy cảm tự nhiên, người ta có thể kinh nghiệm biết đến những kinh mạch.

kunzhi. Trong đạo Bošn, kunzhi là nền tảng của mọi cái hiện hữu, kể cả cá nhân. Nó không đồng nghĩa với thức a lại da của Duy thức học, cái này giống với kunzhi namshe hơn. Kunzhi là sự thống nhất của tánh không và sự sáng tỏ, của sự không xác định rỗng rang tuyệt đối của thực tại tuyệt đối và trò phô diễn không ngừng của hình tướngtỉnh giác. Kunzhi là nền tảng hay căn cứ của hiện thể (chúng sanhthế giới).

kunzhi namshe (Skt, alaya vijnana, a lại da thức). Kunzhi namshe là thức nền tảng của cá thể. Nó là “kho chứa” trong đó chứa giữ những dấu vết nghiệp, từ đây những kinh nghiệm bị quy định của tương lai khởi lên.

lama (Skt, guru). Lama nghĩa đen là “bà mẹ cao nhất”. Lama ám chỉ một vị thầy tâm linh, người quan trọng không gì hơn cho học trò. Trong truyền thống Tây Tạng, lama được coi trọng còn hơn Phật, vì chính lama làm sống lại giáo lý để cho học trò. Trên mức độ tối hậu, lama là Phật tánh của chính mình. Trên mức độ tương đối, lama là thầy dạy của mình.

lung (Skt, vayu). Lung là năng lực sinh khí, thường được biết với tiếng Sanskrit là prana. Lung có một dãy rộng ý nghĩa; trong bối cảnh của sách này nó ám chỉ năng lực sống mà sự sống động của thân thể và thức nương dựa lên.

ma-rigpa (Skt, avidya). Vô minh. Sự không hiểu biết chân lý về nền tảng, kunzhi. Thường có hai phạm trù của vô minh được diễn tả: vô minh bẩm sinh và vô minh văn hóa.

pháp thân (Skt, dharmakaya). Một vị Phật có ba thân : pháp thân, báo thânhóa thân. Pháp thân thường được dịch là “thân chân lý”, ám chỉ đến bản tánh tuyệt đối của một vị Phật, cái mà tất cả chư Phật chung nhau tham dự và nó đồng nhất với bản tánh tuyệt đối của mọi hiện hữu: tánh không. Pháp thânvô niệm, bất nhịthoát khỏi mọi tính chất.

rigpa (Skt, vidya). Nghĩa đen, “tỉnh giác” hay “biết”. Trong những giáo lý Đại Toàn Thiện, rigpa có nghĩa là sự tỉnh giác về chân lý, tỉnh giác bẩm sinh, bản tánh chân thật của cá nhân.

Rinpoche. Nghĩa đen, “bậc quý báu”. Một tôn vinh được dùng rộng rãi để chỉ một lama tái sanh.

samaya. Cam kết hay lời thệ nguyện. Nói chung, sự cam kết mà hành giả có trong liên kết với một thực hành mật thừa, về mặt thái độ hành xử và hành động. Có những thệ nguyện tổng quát và thệ nguyện đặc biệt với những thực hành tantra riêng biệt.

Shenla Odker. Shenla Odker là hình tướng báo thân của Shen-rab Miwoche, vị Phật lập ra đạo Bošn.

Shenrab Miwoche. Shenrab Miwoche là Phật hóa thân đã lập nên đạo Bošn, theo truyền thống đã sống mười bảy ngàn năm trước. Có mười lăm bộ tiểu sử của Shenrab Miwoche trong kinh sách Bošn.

tantra (TT, rgyud). Tantra là những giáo lý của chư Phật, như là sutra (kinh), nhưng nhiều tantra được khám phá lại bởi những thiền giả của truyền thống terma. Những tantra đặt nền trên con đường chuyển hóabao gồm những thực hành như làm việc với năng lực của thân thể, sự chuyển di tâm thức, yoga giấc mộng và yoga giấc ngủ v.v... Một số loại tantra thuộc về con đường chuyển hóa không tiệm tiến, đốn chứng, chúng cũng chứa đựng những giáo lý về Dzogchen.

Tapihritsa. Mặc dù được xem là một con người lịch sử, Tapihritsa được tượng trưng trong tranh tượng như là Phật pháp thân, trần truồng và không đồ trang sức, nhân cách hóa cho thực tại tuyệt đối. Ngài là một trong hai đạo sư chính yếu trong dòng Đại Toàn Thiện Zhang Zhung Nyan Gyud.

tiglé (TT, thig le; Skt, bindu). Tiglé có nhiều nghĩa tùy theo bối cảnh. Dù thường được dịch là “giọt, hạt”, trong bối cảnh của những yoga giấc mộng và giấc ngủ, tiglé ám chỉ đến một khối cầu ánh sáng rực rỡ tượng trưng cho một phẩm tính của tâm thức và được dùng như một chỗ để tập chú trong thực hành thiền định.

yidam (TT, yid dam; Skt, devata). Yidam là vị thần ‘bổn mạng’ hay vị thần thiền định hiện thân một khía cạnh của tâm giác ngộ. Có bốn phạm trù yidam: bình an, tăng trưởng, thần lực và hung nộ. Những hóa thần yidam biểu lộ trong những hình thức khác nhau này để hàng phục những lực lượng tiêu cực.

Zhang Zhung Nyan Gyud. Là một trong những ‘vòng’, những giáo trình quan trọng nhất của những giáo lý Đại Toàn Thiện trong đạo Bošn. Nó thuộc về loại upadesha của giáo lý.

zhiné (TT, zhi gnas; Skt, samatha). “An định” hay “tĩnh lặng”. Sự thực hành an định tập chú trên một đối tượng bên ngoài hay bên trong để phát triển tập trung và định tâm. An định là một thực hành nền tảng, căn cứ cho mọi sự phát triển của sự thực hành thiền định khác cao hơn, và cần thiết cho cả yoga giấc mộng và yoga giấc ngủ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1323)
Kinh này nói về cái chết, vô thường, mất mát… Kinh này không nói về vô ngã, nhưng nói rằng phải xa lìa “cái của tôi,”
(Xem: 1089)
Bài kinh Kevaṭṭa-Sutta là một bài kinh dài giảng cho một người thế tục trẻ tuổi tên là Kevaṭṭa khi người này đến xin Đức Phật chỉ định ...
(Xem: 1376)
Phật từ tướng bạch hào Phóng quang khắp thế giới Hội thượng Phật Bồ Tát Tán thán Phật Tỳ Lô
(Xem: 1760)
Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Jetavana, khu vườn của ông Anāthapiṇḍika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Girimānanda bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh.
(Xem: 1861)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc già phạm ở thành Vương xá, trong đỉnh Thứu phong, cùng chúng đại tỳ kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị đều đến tụ tập.
(Xem: 2150)
Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại tịnh xá Cấp cô độc, vườn Kỳ-đà, gần thành Xá-vệ.
(Xem: 2130)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến. Chỉ có pháp hiện tại, Tuệ quán chính ở đây,
(Xem: 3812)
Thiền quán về Duyên khởi Tính không và giai đoạn hậu thiền với mục đích làm tăng trưởng những phẩm hạnh cao quý.
(Xem: 9279)
Nghi Lễ Hàng Ngày NS Thích Nữ Giới Hương biên soạn
(Xem: 30520)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 4562)
Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật ở chùa Kỳ Viên thuộc thành Xá Vệ do Cấp Cô Độc phát tâm hiến cúng.
(Xem: 12349)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11700)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12980)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 9928)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 10853)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10615)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10807)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 16392)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 7216)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 5130)
Nói kinh Pháp cú Bắc truyền, được kết tập bằng tiếng Phạn, là để phân biệt với kinh Pháp cú Nam truyền, được kết tập bằng tiếng Pāli.
(Xem: 16626)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13951)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16689)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12231)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 16470)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14448)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16280)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12781)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12175)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11877)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15781)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 14111)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12103)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 15075)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 13215)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14639)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20845)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13330)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 11044)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 14477)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20519)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 14124)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 14849)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 12138)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15356)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11168)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10607)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12531)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 14388)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 16944)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11637)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 11414)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12136)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52340)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15555)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 14047)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11493)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13244)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12864)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant