Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Phạm Chí Kế Thủy Tịnh

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11962)
Kinh Phạm Chí Kế Thủy Tịnh


PHẬT NÓI KINH PHẠM CHÍ KẾ THỦY TỊNH


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0051 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Mất tên người dịch, phụ lục vào Ðông Tấn.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 

Nghe như vầy:

Một thời Bà Già Bà lúc mới thành đạo, một mìnhdưới gốc cây, trên bờ sông Uất Tỳ La (giáp giới của Ma Kiệt).

Bấy giờ có bà la môn Kế Thủy Tịnh, sau giờ ngọ ung dung đi đến chỗ đức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn từ xa trông thấy bà la môn Kế Thủy Tịnh đi lại. Nhân thấy bà la môn Kế Thủy Tịnh nên Ngài liền bảo các Tỳ kheo:

-Nếu có hai mươi mốt thứ trói buộc tâm ý sẽ đọa vào ác thú, sanh trong địa ngục Nê Lê.

Những gì là hai mươi mốt thứ trói buộc tâm ý? Ðó là: tà kiến trói buộc tâm, phi pháp dục, lừa dối, tà pháp của thế gian, tham lam, sân hận, giải đãi, thùy miên, đùa giỡn, không biết hổ thẹn, nghi ngờ, tức giận, bực tức, keo kiết, ganh tỵ, không hỷ xả, quanh co nịnh nọt, huyễn thuật, không biết xấu không biết hổ, tật đố và tăng thượng tật đố, phóng dật trói buộc tâm ý. Nếu có hai mươi mốt thứ trói buộc tâm ý này sẽ đọa vào ác thú, sanh trong địa ngục Nê Lê.

Ví như cái áo dơ bẩn của con nít, người chủ đưa cho thợ nhuộm hay đệ tử của thợ nhuộm. Người thợ nhuộm ngâm cái áo vào nước tro hay nước chùm kết, hay trong bột giặt, chà xát thật kỹ khiến cho cái áo hết sức sạch sẽ. Tuy người thợ nhuộm hay học trò của y đã dùng nước tro, chùm kết hay bột giặt ngâm cái áo vào rồi chà xát thật kỹ khiến cho cái áo hết sức sạch sẽ. Nhưng vì cái áo trẻ con ấy vốn có nhiều vết cáu bẩn đen sì (nên vẫn có màu dơ bẩn). Cũng như vậy, nếu có hai mươi mốt thứ làm trói buộc tâm ý liền đọa vào ác thú, sanh trong địa ngục Nê Lê.

Những gì là hai mươi mốt? Ðó là tà kiến trói buộc tâm, cho đến phóng dật trói buộc tâm. Nếu có hai mươi mốt thứ trói buộc tâm này liền đọa vào ác thú, sanh trong địa ngục Nê Lê. Nếu không có hai mươi mốt thứ trói buộc tâm liền được sanh đến chỗ lành, trên trời. Những gì là hai mươi mốt? Ðó là (không có) tà kiến trói buộc tâm, cho đến (không có) phóng dật trói buộc tâm. Nếu không có hai mươi mốt thứ trói buộc tâm liền được sanh đến chỗ lành, trên trời.

Ví như cái áo dệt bằng vải Ba la nại, người chủ đưa cho thợ nhuộm hay đệ tử của y (nhờ nhuộm). Thợ nhuộm dùng tro hay bột chùm kết, hay dùng bột giặt để ngâm cái áo rồi chà xát, tẩy giặt khiến cho cái áo được thật sạch. Tuy cái áo vải Ba la nại ấy được thợ nhuộm hay đệ tử của y dùng nước tro hay bột chùm kết ngâm vào rồi chà xát, tẩy giặt thật kỹ cho sạch, nhưng cái áo vải Ba la nại ấy vốn đã sạch, nay lại càng trắng sạch thêm. Cũng như vậy, nếu không có hai mươi mốt thứ trói buộc tâm liền được sanh đến chỗ lành, trên trời.

Những gì là hai mươi mốt? Ðó là tà kiến trói buộc tâm, cho đến phóng dật trói buộc tâm. (Nếu không có nó) liền được sanh đến chỗ lành, trên trời.

Tà kiến trói buộc tâm, thấy rồi phải trừ bỏ, cho đến phóng dật trói buộc tâm, thấy rồi phải trừ bỏ. Tâm của vị ấy cùng đi đôi với Từ, biến mãn một phương, an trú chánh thọ (định). Cũng như vậy, cho đến hai phương, ba phương, bốn phương, tứ duy trên dưới, trùm hết tất cả, cùng đi đôi với Từ, không hại, không giận, rộng rãi bao la, vô lượng, không còn phân biệt, biến mãn một phương rồi an trú chánh thọ. Cũng như vậy, tâm đi đôi với Bi, Hỷ, Xả, biến tất cả các phương rồi an trú chánh thọ.

Ðó là bà la môn trong ngoài đồng rửa sạch, chứ không phải chỉ sạch ở bên ngoài thôi.

Bấy giờ Phạm chí nói với Thế Tôn:

-Thưa Cù Ðàm! Hãy đến sông để tắm rửa. Thưa Cù Ðàm, nước sông rửa sạch, nó tương ưng giới hạnh, tương ưng phước đức, tương ưng sự độ thoát của tất cả thế gian. Thưa Cù Ðàm, tất cả người thế gian dùng nước tắm rửa sẽ trừ được tất cả điều ác, ở trong nước sạch tẩy rửa nhu nhuyến, dù người phàm phu vẫn thường được an lạc.

-Nhưng nước không thể trừ được hành động đen tối. Dùng nước sạch ấy, nhưng tại nước nào thấy gì? Người làm các điều ác, nước này làm sao có thể rửa sạch được? Muốn có sự thanh tịnh vững chắc, hãy giữ giới hạnh, hành tinh tấn hạnh, thường được tương ưng với giới. Nếu ông không sát sanh, trộm cắp, nói dối, là được đắc độ. Phạm chí hãy an trụ nơi đây, làm tất cả điều thiện thì được an ổn.

-Này bà la môn, cần gì phải trở về nhà, cần gì ở ngoài nhà? Này bà la môn, nên cầu thiện pháp thanh tịnh, đâu cần thứ nước tệ ác ấy, chỉ trừ trần cấu ô uế.

-Này Cù Ðàm, hoặc có người nghĩ rằng: “Chỉ cầu thiện pháp thanh tịnh không cần thứ nước tệ ác ấy, nó chỉ trừ trần cấu ô uế”. Ðủ rồi, thưa Cù Ðàm, nay con xin quy y Thế Tôn, Pháp và Tỳ kheo tăng. Bạch Thế Tôn, con xin làm Ưu bà tắc từ ngày hôm nay cho đến lúc mạng chung. Con xin quy y Phật, xa lìa sát sanh.

Ðức Phật nói như vậy, các Tỳ kheo nghe đức Thế Tôn nói xong hoan hỷ phụng hành

PHẬT NÓI KINH PHẠM CHÍ KẾ THỦY TỊNH

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22938)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 11712)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 19231)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 24088)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 13306)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 13060)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12937)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13063)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 14413)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105900)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14659)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19868)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38503)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 14106)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12888)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13778)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12584)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19465)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27098)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13544)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21697)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 18041)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 14288)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16149)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 15108)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 14238)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13223)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14482)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19805)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16764)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 21192)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14815)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39203)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 19421)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14744)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16171)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14729)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15247)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14942)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15588)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39193)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14158)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24551)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14414)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19488)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 18049)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21494)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19717)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17544)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14875)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13917)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13800)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14136)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21938)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16763)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15250)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14561)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14079)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14382)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant