Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

16-08 Phẩm Cưu Bàn Trà Thọ Ký

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 8817)
16-08 Phẩm Cưu Bàn Trà Thọ Ký
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XVI
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU

Hán Dịch: Cao Tế, Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Phẩm Cưu Bàn Trà Thọ Ký
Thứ Tám


 Bấy giờ lại có một ức tám ngàn vạn Cưu Bàn Trà thấy chư A Tu La, Ca Lâu La, Long NữLong Vương cúng dường Phật được thọ ký

 họ rất vừa lòng hớn hở vui mừng sanh lòng hi hữu chưa từng có, nghĩ rằng đức Như Lai Thế Tôn công đức trí tuệ vi diệu thù thắng được sự cúng dường hi hữu như vậy mà chẳng mừng chẳng kỳ lạ, vì trí tuệ của Phật là tối tôn thắng trong các trí huệ vậy. Ví như đại hải chẳng tăng chẳng giảm. Tại sao ? Vì sâu rộng vậy. Đức Thế Tôn được cúng dường thù thắngtâm Phật chẳng tăng giảm. Tại sao ? Vì đối với tất cả pháp không chỗ nghi vậy.

 Lúc ấy một ức tám ngàn vạn Cưu Bàn Tràcúng dường nên hóa hiện một ức tám ngàn vạn lọng thất bửu treo những vòng thất bửu

 Lại hóa một ức tám ngàn vạn xe thất bửu, trên xe lại hóa một ức tám ngàn vạn lọng báu, những xe ấy liền nhau, lọng báu đều treo những tụi báu, có màn lưới xích chơn châu trùm lên trên. Lại hóa những âm nhạc Cưu Bàn Trà hòa tấu cúng dường Phật. Lại hóa một ức tám ngàn vạn ngựa nhiều màu báu rất điều phục để kéo xe ấy. Chư Cưu Bàn Trà đều ngồi xe thất bửu nhiễu bên hữu Phật ba vòng, dùng hoa thất bửu rải trên Phật rồi xuống xe đến lê’ chưn Phật nhiễu Phật ba vòng chấp tay đứng một phía nói kệ tán thán rằng :

 “ Chẳng tăng chẳng gjảm Đại Mâu Ni
 Dường như Tu Di các núi chúa
 Thọ sự cúng dường vô thượng nầy
 Vì Như Lai được vô úy vậy
 Quan sát chúng sanh chỉ có danh
 Và chỉ có dụng chẳng nắm lấy
 Đạo Sư do tu hạnh tịch diệt
 Do đó người trí không cống cao
 Thế Tôn biềt đời dường ảo mộng
 Trong ảo trong mộng thọ dục lạc
 Lại giống thủy nguyệt và dương diệm
 Quán sát như vậy không còn thừa
 Ví như càn thành không có thiệt
 Khắp mười phương cầu chẳng thể được
 Thành ấy không thiệt chỉ có danh
 Phật thấy thế pháp đều như vậy
 Tất cả Trời Người cúng dường Phật
 Xe báu lọng báu và âm nhạc
 Tràng hoa tua tụi cùng chấp tay
 Thế Tôn xem biết như ảnh hưởng
 Chúng tôi trần thiết như cúng dường rồi
 Nguyện tôi đương lai sẽ làm Phật
 Cũng nguyện tôi biết đời như mộng
 Biết rồi thuyết pháp như Thế Tôn
 Chúng tôi thấy những người khổ não
 Bị sanh già ịnh chết bứt ngăt
 Nguyện biết Phật Bồ đề Vô thượng
 Nói cho kẻ nghe được giải thoát
 Ở chỗ các chúng sanh vô trí
 Nguyện được Bồ đề để thuyết pháp
 Diễn thuyết không có pháp cấu trược
 Trong chúng không đạo làm Đạo Sư ”.

 Đức Thế Tôn biết chư Cưu Bàn Trà sanh lòng tín sâu nên hiện tướng mỉm cười.

 Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi rằng :

 “ Phật chẳng không cớ hiện mỉm cười
 Chẳng cho tất cả là hi hữu
 Phật chẳng hi hữumỉm cười
 Nay tôi nguyện nghe nhơn duyên ấy
 Tất cả Trời Người đều có nghi
 Thấy nơi miệng Phật hiện mỉm cười
 Ngưỡng mong dứt trừ các lưới nghi
 Diễn nói sự mỉm cười của Phật
 Ai nói chánh pháp được tín sâu
 Ai hay như pháp thấy từ phụ
 Ai được Phật khen dâng cúng dường
 Tôi nguyện được nghe Thế Tôn nói
 Ngày nay đối với hành hữu vi
 Ai thấy lỗi nó mà vứt bỏ
 Ngày nay ai an trụ thiệt tế
 Tâm họ thanh tịnh tôi nguyện nghe
 Ai hàng phục ma và quyến thuộc
 Ai khiến được Phật tâm vui vẻ
 Ai hay được đáy hữu vi sâu
 Tôi muốn được nghe để dứt nghi
 Tất cả đại chúng đứng chắp tay
 Cầu nghe nhơn duyên Phật mỉm cười
 Nguyện dứt tất cả chúng sanh nghi
 Đấng thế Tôn tuyên thọ ký họ ”.

 Đức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng rằng :

 “ Lành thay Mã Thắng hỏi nghĩa ấy
 Đem lợi ích lớn cho thế gian
 Vì ông hỏi nhơn duyên mỉm cười
 Mã Thắng lắng nghe nay Phật nói
 Chúng Cưu Bàn Trà cúng dường Phật
 Nơi pháp tịch diệt tâm an trụ
 Chúng ấy thấy Phật chẳng kinh quái
 Sanh lòng hi hữu mà nguyện cầu
 Chúng ấy hôm nay cúng dường Phật
 Tâm họ chọn lấy pháp tịch diệt
 Do lòng tin sâu khởi đại bi
 Nơi người lạc đường làm Đạo Sư
 Vì thương chúng sanh nên cúng Phật
 Vì kẻ lạc đường khởi lòng
 Chúng hiền trí ấy làm vậy rồi
 Được bỏ thân quỉ sanh Đao Lợi
 Thiên Vương thường dùng lòng từ bi
 Tại trời luôn luôn dạy dỗ họ
 Họ có các pháp được không nghi
 Được làm thân quyến Thiên Đế Thích
 Họ có vô lượng hằng sa kiếp
 Mỗi mỗi quốc độ làm Phật hạnh
 Mặc giáp hằng thệ rất kiên cố
 Cúng dường đấng Pháp Vương tự tại
 Họ có vô lượng các quốc độ
 Lòng không mỏi nhọc được thanh tịnh
 Lợi ích đại chúng làm Đạo Sư
 Sẽ được làm Phật hiệu Bất Quái
 Lúc họ ở các nước tu hành
 Người nước ấy tất biết thành Phật
 Do phương tiện nầy đời vị lai
 Dầu độ chúng sanh không tâm quái
 Vì cầu đạo vô thượng an ổn
 Tịnh các quốc độ đều chẳng quái
 Nơi việc được làm tâm không trước
 Nơi đại Bồ đề cũng như vậy
 Hỏi duyên cớ cười Phật đã đáp
 Chúng sanh đều được dứt lòng nghi
 Đại chúng hết nghi đều mừng rỡ
 Quyết định biết rõ họ cúng dường”
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1329)
Kinh này nói về cái chết, vô thường, mất mát… Kinh này không nói về vô ngã, nhưng nói rằng phải xa lìa “cái của tôi,”
(Xem: 1091)
Bài kinh Kevaṭṭa-Sutta là một bài kinh dài giảng cho một người thế tục trẻ tuổi tên là Kevaṭṭa khi người này đến xin Đức Phật chỉ định ...
(Xem: 1382)
Phật từ tướng bạch hào Phóng quang khắp thế giới Hội thượng Phật Bồ Tát Tán thán Phật Tỳ Lô
(Xem: 1768)
Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Jetavana, khu vườn của ông Anāthapiṇḍika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Girimānanda bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh.
(Xem: 1866)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc già phạm ở thành Vương xá, trong đỉnh Thứu phong, cùng chúng đại tỳ kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị đều đến tụ tập.
(Xem: 2156)
Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại tịnh xá Cấp cô độc, vườn Kỳ-đà, gần thành Xá-vệ.
(Xem: 2133)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến. Chỉ có pháp hiện tại, Tuệ quán chính ở đây,
(Xem: 3818)
Thiền quán về Duyên khởi Tính không và giai đoạn hậu thiền với mục đích làm tăng trưởng những phẩm hạnh cao quý.
(Xem: 9289)
Nghi Lễ Hàng Ngày NS Thích Nữ Giới Hương biên soạn
(Xem: 30531)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 4565)
Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật ở chùa Kỳ Viên thuộc thành Xá Vệ do Cấp Cô Độc phát tâm hiến cúng.
(Xem: 12354)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11702)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12995)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 9942)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 10879)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10629)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10828)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 16401)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 7222)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 5141)
Nói kinh Pháp cú Bắc truyền, được kết tập bằng tiếng Phạn, là để phân biệt với kinh Pháp cú Nam truyền, được kết tập bằng tiếng Pāli.
(Xem: 16633)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13959)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16702)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12238)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 16476)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14462)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16284)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12788)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12179)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11882)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15789)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 14117)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12111)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 15085)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 13224)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14639)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20864)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13338)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 11054)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 14479)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20539)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 14129)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 14853)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 12147)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15374)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11181)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10617)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12539)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 14408)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 16956)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11643)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 11419)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12151)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52358)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15563)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 14051)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11498)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13252)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12869)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant