Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Tư: Đức Sơn Mang Bao Hành Trang

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15735)
Tắc thứ Tư: Đức Sơn Mang Bao Hành Trang

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 1

TẮC THỨ TƯ

ĐỨC SƠN MANG BAO HÀNH TRANG

 

THÙY: Dưới thanh niên bạch nhật, không cần phải vạch đông chỉ tây. Song tùy thời tiết nhân duyên vẫn cần phải tùy bệnh cho thuốc. Thử nói xem, buông thả hay giữ chặt cái nào hơn? Thử nêu ra xem sao.

CỬ: Đức Sơn đến nơi của Qui Sơn, ôm bao hành trang vào Pháp đường, đi từ tây qua đông rồi từ đông qua tây, nhìn quanh nói, “ Vô, vô,” rồi bỏ ra ngoài. Tuyết Đậu phê bình rằng “ Khám phá ra rồi.” Song khi Đức Sơn đến cổng lại nói, “Cũng không nên thô suất như thế.” Rồi lại đầy đủ uy nghi trở vào gặp Qui Sơn. Lúc Qui Sơn ngồi đó, Đức Sơn dơ tọa cụ lên nói, “Hòa thượng!” Qui Sơn toan chụp lấy phất trần, Đức Sơn bèn hét, rồi rũ áo bỏ đi ra.

Tuyết Đậu phê bình rằng, “Khám phá ra rồi.”

Đức Sơn quay lưng về Pháp đường, mang dép cỏ vào rồi bỏ đi. Tối đến Qui Sơn hiỏ vị thủ tòa, “ Người vừa rồi mới đến đâu rồi?” Thủ tòa nói, “Lúc ấy ông ta quay lưng về Pháp đường, mang dép cỏ vào rồi bỏ đi.” Qui Sơn nói, “ Người ấy sau này thế nào cũng lên đỉnh cao tự xây am cỏ mà tiếp tục bài Phật bang Tổ.”

Tuyết Đậu phê bình, “ Thêm sương lên tuyết.”

BÌNH: Nêu xong lời của Đức Sơn chỉ thêm ba chữ “điểm”. Quí vị có hiểu không? Có lúc xem một cọng cỏ như thân vàng một trượng sáu (của Phật), có lúc lại xem thân vàng một trượng sáu (của Phật) như một cọng cỏ.

Qui Sơn vốn là giảng sư, tại Tứ xuyên giảng Kinh Kim Cương[13]Theo lời dạy trong Kinh thì trong trí huệ đạt được sau khi chứng Kim Cương Dụ Định (Vajropamasamàdhi), người hành giả học uy nghi Phật trong một ngàn kiếp, tu tập Phật hạnh trong một ngàn kiếp, rồi sau đó mới thành Phật .Thế mà bọn ma ở phương nam lại nói, “Tâm chính là Phật”. Đức Sơn lấy làm công phẫn, gánh theo sớ sao đi về phương nam để dẹp tan bọn ma này. Thấy thầy ta công phẫn như thế cũng đủ hiểu thầy ta là một tay mãnh liệt như thế nào.

Lúc mới đến Phong Châu, Đức Sơn gặp một bà lão bán bánh rán bên lề đường, mới đặt sớ sao xuống, định mua vài món ăn điểm tâm. Bà lão hỏi, “ Thầy mang theo cái gì vậy?” Đức Sơn nói, “ Kim Cương Kinh Sớ Sao.” Bà lão nói, “Tôi có một câu hỏi, nếu thầy trả lời được xin biếu không bánh cho thầy điểm tâm, còn nếu không trả lời được thì đi chổ khác mà mua”. Đức Sơn nói, “ Cứ hỏi đi”.Bà lão nói, “ Kinh Kim Cương nói: quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc,chẳng hay thượng tọa muốn điểm tâm cái nào đây?” Đức Sơn không nói năng gì được. Bà lão bèn chỉ cho đến tham khán Long Đàm.

Vừa bước qua ngưỡng cửa Đức Sơn đã nói, “ Lâu nay nghe tiếng Long Đàm, song khi đến đây chẳng thấy hồ (đàm) mà cũng chẳng thấy rồng(long) hiện.Long Đàm hòa thượng từ sau bình phong bước ra, nói,” Ông quả thật đến Long Đàm”. Đức Sơn bèn cúi lạy rồi lui. Đêm ấy vào phòng của Long Đàm đứng hầu mãi đến khuya. Long Đàm nói, “Tại sao Thầy chưa lui đi?” Đức Sơn chào rồi vạch màn bước ra, thầy bên ngoài trời tối bèn quay vào nói, “ Bên ngoài tối quá”. Long Đàm bèn thắp đèn giấy rồi đưa cho Đức Sơn, Đức Sơn vừa tiếp lấy, Long Đàm thổi tắt đèn. Đức Sơn hoát nhiên đại ngộ.Lập tức cúi lạy. Long Đàm nói, “Ông thấy được gì mà ông cúi lạy vậy?” Đức Sơn nói, “Từ rày trở đi kẻ hèn này không còn giám nghi ngờ những gì các lão hòa thượng trong thiên hạ nói nữa.”

Hôm sau Long Đàm thượng đường nói, “Trong các ông có một gã răng như rừng kiếm, miệng như bát máu, dù có lấy gậy đập đi nữa cũng không quay đầu. Ngày sau gã sẽ lên đỉnh cao mà lập đạo ta ở đó.” Đức Sơn bèn đem sớ sao ra trước Pháp đường, dơ cao ngọn đuốc lên nói, “Nghiên cứu các biện luận huyền ảo, thật ra cũng chẳng khác gì đặt một sợi lông vào hư không; xét tận các quan kiện cốt yếu, lại chỉ giống như nhỏ một giọt nước vào thung lũng lớn.” Rồi đốt hết đi.

Sau đó nghe nói giáo lý của Qui Sơn đang thịnh, mới đến nơi để gặp Qui Sơn với tư cách là người thông hiểu Thiền. Không buồn cởi hành trang, Đức Sơn bước thẳng vào Pháp đường, đi từ tây qua đông rồi từ đông qua tây, nhìn chung quanh nói, “Vô, vô”. Rồi bỏ ra ngoài. Thử nói xem ý của Thầy ta là thế nào? Phải chăng thầy ta điên? Nhiều người hiểu lầm bảo rằng đó là cách kiến lập của Đức Sơn, song không đúng chút nào. Thầy Đức Sơn nầy mới thật là kỳ đặc, cho nên mới có lời nói, “ Xuất chúng phải là tay hảo hán, thắng địch là chuyện sư tử con. Tuyển Phật mà không có mắt này, dù cho ngàn năm làm được chi?” Đến chổ này hẳn phải là một người thông thạo lắm mới nhìn thấy được. Tại sao vậy? Phật Pháp chẳng có gì là phức tạp, làm sao có thể đem tình trần đến mà so đo được? Đó chính là tâm cơ của Đức Sơn, sao mà có lắm lao nhọc như thế . Cho nên Huyền Sa mới nói, “Cho dù là có giống như bóng trăng trong hồ thu, tiếng chuông trong đêm vắng, khua sóng chẳng làm tan, lúc nào gõ là kêu, song vẫn là việc của bờ bên này sinh tử. Đến chổ này rồi thì không có được mất,thị phi, cũng chẳng có kỳ đặc kỳ diệu. Đã thế thì làm sao hiểu được việc-Đức Sơn đi từ tây qua đông rồi lại từ đông qua tây. Thử nói xem ý của thầy ta là gì?

Lão hán Qui Sơn chẳng them đếm xỉa Đức Sơn nếu như không phải là người như Qui Sơn hẳn thế nào cũng bị Đức Sơn bẻ gãy rồi. Nhìn xem Qui Sơn là tay thông thạo, chỉ ngồi yên đó mà xem thành bại. Nếu như Qui Sơn không nhìn thấu được ngọn gió thổi đến kia, làm sao mà thầy ta có thể đương đầu với vấn đề như thế được. Tuyết Đậu phê bình một lời rằng, “ Khám phá ra rồi.” Đây giồng như thể một thanh sắt. Tăng chúng gọi như vậy là, “trước ngữ”, tuy ở hai bên song lại không trụ bên nào cả. Phải hiểu lời thầy ta nói, “khám phá ra rồi” như thế nào? Chỗ nào là chỗ khám phá? Thử nói xem khám phá Đức Sơn hay là khám phá Qui Sơn?

Đức Sơn bèn bỏ ra ngoài, đến cổng tự viện bèn tự nhủ, “ Không nên thô suất như thế”. Đức Sơn muốn thố lộ tim gan ngũ tạng để cùng Qui Sơn “ pháp chiến” một trận, cho nên mới lại đầy đủ uy nghi trở vào Qui Sơn một lần nữa. Lúc Qui Sơn ngồi đó, Đức Sơn dơ tọa cụ lên nói, “ Hòa thượng!” Qui Sơn toan với lấy phất trần, Đức Sơn bèn hét rồi rũ áo bỏ đi. Kỳ đặc hết sức!

Nhiều người trong tăng chúng nói rằng Qui Sơn sợ Đức Sơn. Nói vậy thì có gì là nhằm nhò? Qui Sơn chẳng hề vội vã. Cho nên cổ nhân nói, “ Người có trí hơn chim thì bắt được chim, có trí hơn thú thì bắt được thú, có trí hơn người thì bắt được người. Ai tham thấu được vấn đề này của Thiền, thì cho dù là tất cả cây cỏ rừng rậm người vật hoa quả sâm la vạn tượng trong trời đất cùng một lúc hét lên, gã cũng chẳng buồn màng tới. Dù cho có lật đổ giường thiền, hét tan đại chúng, gã cũng chẳng buồn màng tới. Cao như trời , rộng như đất. Nếu như mà Qui Sơn không có khả năng bẻ gãy miệng lưỡi của tất cả thiên hạ thì lúc ấy hẳn việc thử thách Đức Sơn đâm ra khó khăn lắm. Nếu như Qui Sơn không phải là thiện tri thức của một ngàn năm trăm người, thì đến lúc đó hẳn đã không phân giải được. Song Qui Sơn là loại người trù tính kế hoạch trong trướng mà đạt được chiến thắng ngoài ngàn dặm.

Đức Sơn quay lưng về Thiền Đường, mang dép cỏ rồi bỏ đi.Thử nói xem, ý của thầy ta là gì? Đức Sơn thắng hay bại? Còn Qui Sơn như thế là thắng hay bại? Tuyết Đậu phê bình, “ Khám pháp ra rồi” Đó là thầy ta nỗ lực để nhìn thấu hoa ngôn cùng cực của cổ nhân.Như vậy thầy ta mới đúng là kỳ đặc. Tuyết Đậu nói, “khám phá ra rồi”, hai lần, chia thành ba đoạn. Lúc ấy mới giải rõ công án. Tuyết Đậu cũng giống như kẻ bàng quan phán đoán hai người kia.

Sau đó lão hán Qui Sơn vẫn cứ tà tà, mãi tối đến mới hỏi vị thủ tòa, “Cái người vừa rồi mới tới ở đâu rồi?” Thủ tòa nói, “ Lúc ấy ông ta quay lưng về Pháp đường, mang dép cỏ vào rồi bỏ đi.” Qui Sơn nói, “Người ấy sau này thế nào cũng lên đỉnh cao tự xây am cỏ mà tiếp tục bài Phật bang tổ.” Thử nói xem ý của thầy ta như thế nào? Lão hán Qui Sơn không phải là hảo tâm đâu. Đức Sơn sau này tha hồ mà bài Phật bang Tổ, đánh mưa đánh gió, song thầy ta vẫn chẳng rời khỏi hang động của mình. Nghề nghiệp một đời của Đức Sơn bị Qui Sơn nhìn thấu cả. Ở đây có thể nói rằng Qui Sơn thụ ký cho Đức Sơn được chăng? May có thể nói là đầm lớn giấu được núi, chồn khắc phục được báo? May thay, những cái này chẳng có gì nhằm nhò đến vấn đề cả.

Tuyết Đậu hiểu cái cốt yếu của công án này,cho nên mới dám phán đoán cho người khác nói rằng, “ Thêm sương lên tuyết”. Nêu một lần nữa cho người khác xem. Nếu như ai thấy được, người ấy thật là ngang hàng với Qui Sơn, Đức Sơn và Tuyết Đạu. Nếu như không thấy được, cũng chớ có gượng ép giải thích theo ý riêng.

TỤNG:

Một khám phá

Hai khám phá

Thêm sương lên tuyết,

Phi Kỵ tướng quân vào trại địch,

Còn được an toàn có mấy kẻ?

Vội đi qua,

Không buông tha,

Trên đỉnh cô đơn ngồi trong cỏ.

Ôi!

BÌNH: Tuyết Đậu tụng một trăm tắc công án, từng tắc một thắp hương mà nêu. Cho nên những bài tụng ấy rất được lưu hành trên đời. Thầy ta rành văn chương , thông hiểu công án. Bao giờ cũng suy nghĩ chín chắn rồi mới hạ bút. Tại sao lại thế? Rồng rắn dễ phân, lừa tăng lại khó. Tuyết Đậu tham thấu nhân duyên này, viết ba câu phê bình ở những chỗ gay go khó hiểu nhất. Rồi toát yếu lại mà làm tụng.

“Thêm sương trên tuyết” gần như rơi vào nguy hiểm. Còn Đức Sơn thì như thế nào? Giống như Phi ky Tướng Quân vào trại địch, tức là Lý Quảng thiện xạ đượcvua phong làm Phi Ký Tướng Quân. Sau khi đánh giặc, bị người Phiên bắt, toan cho ngựa xé.Quảng giả chết. Nửa đường len lén mở mắt, thấy tên lính canh trong tay có cung tên, bèn tung mình đoạt cung tên trong tay tên lính canh trong tay có cung tên, bèn tung mình đoạt cung tên trong tay tên lính canh, bắn chết tên lính canh. Rồi đoạt ngựa mà tẩu thoát. Bọn giặc tiếp tục đuổi theo, bị Quảng giương cung bắn chết một tên , giặc sợ quá bèn lui. Gã hán tử này có khả năng sống lại từ cõi chết. Tuyết Đậu dẫn tích này trong tụng để so sánh với việc Đức Sơn trở lại gặp Qui Sơn, giống như thể Lý Quảng lại được trở về Hán, và lại cũng nhảy ra lại như xưa.

Nhìn xem người xưa thấy rốt ráo, hành rốt ráo dụng rốt ráo; quả thậtanh hùng. Phải có cái tài giết người không chớp mắt thì mới có thể lập tức thành Phật được. Chỉ có người lập tức thành Phật, giết người không chớp mắt mới có phần tự do tự tại. Như người bây giờ bị hỏi, mới đấu thì còn có vẻ khí khái của tăng sĩ, song chỉ hỏi dồn một chút, là lập tức bụng mềm chân nhuyễn, lúng ta lúng túng, thiếu hẳn sự liên tục. Cho nên cổ nhân nói,”Tương tục là vấn đề rất khó”. Hãy nhìn Đức Sơn Qui Sơn Hành xử, phải chăng kiến giải của họ luộm thuộm vụng về?Còn được an toàn có mấy kẻ? Vội đi qua” Đức Sơn hét bỏ đi, giống như Lý Quảng bày kế đoạt cung sau khi bị bắt, bắn chết tên lính gác người Phiên, mà trốn thoát khỏi trại giặc. Tuyết Đậu tụng chỗ này quả là có công phu.

Đức Sơn quay lưng về Pháp đường, mang dép cỏ vào rồi bỏ đi. Có người nào bảo thầy ta thắng thế, đâu có biết rằng lão hán (Qui Sơn) này vẫn như trước đâu có chịu buông tha thầy ta? Tuyết Đậu nói. “Không buông thá”. Tối đến Qui Sơn hỏi vị thủ tòa, “Người vừa rồi mới đến đâu rồi?”Thủ tòa nói, “ Lúc ấy ông ta quay lưng về Pháp đường, mang dép cỏ vào rồi bỏ đi.” Qui sơn nói. Người ấy sau này thế nào cũng lên đỉnh cao tự xây am cỏ mà tiếp tục bài Phật bang Tổ.” Qui Sơn chịu buông tha Đức Sơn bao giờ? Dù sao Đức Sơn cũng kỳ đặc hết sức. Đến chỗ này tại sao Tuyết Đậu lại nói, “ Trên đỉnh cô đơn ngồi trong cỏ?” Xong rồi lại hét? Thử nói xem, ý của thầy ta là ở chổ nào? Tham Thiền thêm ba mươi năm nữa đi.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24031)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21755)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23328)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27519)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26583)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29347)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 20214)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 20944)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 29858)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 22154)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 24418)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29308)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 32182)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21095)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 21619)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28111)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 29226)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20640)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28318)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23674)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33223)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31875)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39664)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 19405)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26430)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24854)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21767)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 29164)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22583)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20485)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23560)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21254)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35374)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24570)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31372)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26252)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 31267)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20303)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22993)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30107)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21627)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20305)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 20806)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 28831)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34774)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 22585)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21405)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 19372)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 29550)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35205)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28856)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 37944)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21356)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 27057)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27255)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24095)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20879)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34345)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22516)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25158)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant