Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Năm Mươi Lăm: Đạo NgôTiệm Nguyên Đi Điếu Tang

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15382)
Tắc thứ Năm Mươi Lăm: Đạo Ngô Và Tiệm Nguyên Đi Điếu Tang

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 6

TẮC THỨ NĂM MƯƠI LĂM

ĐẠO NGÔTIỆM NGUYÊN ĐI ĐIẾU TANG

 

THÙY: Ẩn mật toàn chân, lập tức thủ chứng. Lững thững chuyển vật, trực tiếp đảm đương. Còn việc như đá lửa điện chớp, cắt đứt lầm lạc, nắm đầu cọp đuôi cọp, đứng lừng lững như vách đá vạn trượng, những thứ ấy tạm gác qua một bên. Một con đường còn có chỗ vì người khác không? Thử nêu lên xem.

CỬ: Đạo NgôTiệm Nguyên đến một nhà kia để điếu tang. Tiệm Nguyên vỗ vào quan tài hỏi, “Sống sao chết sao?” Đạo Ngô nói, “Không bảo là sống mà cũng chẳng bảo là chết.” Tiệm Nguyên nói, “Tại sao lại không?” Đạo Ngô nói, “Không nói là không nói.” Lúc trở về đến nữa đường, Tiệm Nguyên nói, “Hòa thượng mau nói cho tôi, nếu không tôi đánh hòa thượng đó.” Đạo Ngô nói, “Đánh thì cứ việc đánh, nhưng mà nói vẫn không nói.” Tiệm Nguyên bèn đánh.

Sau đó Đạo Ngô thiên hóa. Tiệm Nguyên đến gặp Thạch Sương [3] kể lại câu chuyện kia. Thạch Sương nói, “Không bảo là sống mà cũng chẳng bảo là chết.” Tiệm Nguyên nói, “ Tại sao lại không?” Thạch Sương nói, “ Nhất định không.” Tiệm Nguyên nghe thế bèn tĩnh ngộ.

Một hôm Tiệm Nguyên cầm cái xuổng vào Pháp đường đi từ đông qua tây rồi từ tây qua đông. Thạch Sương nói, “Ông làm gì vậy?” Tiệm Nguyên nói, “Tìm linh cốt của bậc tiên sư.” Thạch Sương nói, “Sóng cả chập chùng , ba đào tận trời. Ông kiếm linh cốt gì của các bậc tiên sư?”

Tuyết Đậu phê bình rằng, “ Trời ơi, trời ơi!” Tiệm Nguyên nói, “Chính vì thế mà phải nỗ lực.” 

Thái Nguyên Phù nói, “ Linh cốt của các bậc tiên sư vẫn còn đó.” 

BÌNH: Đạo NgôTiệm Nguyên đến một nhà kia để điếu tang. Tiệm Nguyên vỗ quan tài nói, “ Sống sao chết sao?” Đạo Ngô nói, “ Không bảo là sống mà cũng chẳng bảo là chết.” Nếu như nghe lời này mà hiểu ngay được cẩn ý, thì đó chính là khóa chốt để thoát sinh tử. Nếu chưa như thế được thì thường thường dễ bị lỡ mất.

Nhìn xem các bậc cổ nhân, đi đứng nằm ngồi lúc nào cũng coi việc này là tâm niệm. Ngay khi vừa đến nhà kia để điếu tang, Tiệm Nguyên đã vỗ quan tài hỏi, “Sống sao chết sao?” Đạo Ngô chẳng hề di dịch một tơ hào, nói với Tiệm Nguyên rằng, “Không bảo là sống mà cũng chẳng bảo là chết.” Tiệm Nguyên để lỡ ngay trước mặt, lo đuổi theo ngôn cú của Đạo Ngô. Bèn nói , “Tại sao lại không?” Đạo Ngô nói, “Không nói là không nói.” Có thể nói là Đạo Ngô hết lòng hết dạ, lấy sai lầm ra đương đầu với sai lầm.

Tiệm Nguyên vẫn chưa giác ngộ, về đến giữa đường vẫn còn hỏi, “Hòa thượng mau nói cho tôi, nếu không tôi đánh hòa thượng đó.” Lão này biết gì về tốt với xấu? Đây đúng là có hảo tâm mà không được đền trả tốt đẹp. Đạo Ngô vẫn cứ một lòng thiết tha như trước, mới nói với Tiệm Nguyên rằng, “Đánh thì cứ việc đánh, nhưng mà nói vẫn không nói.” Tiệm Nguyên bèn đánh. Tuy là thế song Đạo Ngô vẫn cứ hơn một bậc. Đạo Ngô thiết tha như thế vì Tiệm Nguyên, thế mà Tiệm Nguyên lại vẫn cứ mờ mịt.

Sau khi bị đánh Đạo Ngô lại nói với Tiệm Nguyên, “Ông tạm lánh mặt đi. Tôi e rằng vị tri sự trong viện mà khám phá ra việc này thế nào cũng làm khó làm dễ ông.” Rồi bí mật đưa Tiệm Nguyên đi. Đạo Ngôlòng từ bi như thế đấy. Tiệm Nguyên đến một tự viện nhỏ kia, nghe thấy một hành giả tụng Quan Âm Kinh rằng, “Đới với những người mà phải dùng thân tì khưu để độ thì ngài hóa thân làm tì khưu mà thuyết pháp.” Tiệm Nguyên hốt nhiên đại ngộ nói, “ Lúc ấy mình trách lầm tiên sư,mới hay rằng việc này chẳng ở nơi ngôn cú.” Cổ nhân nói, “Những kẻ vĩ đại khôn lưòng vẫn cứ có thể bị xoay chuyển trong ngôn ngữ như thường.”

Có kẻ giải thích theo thiên kiến bảo rằng lúc Đạo Ngô nói, “Không nói là không nói,” tức là đã nói rồi. Đó gọi là “quay lưng lộn nhào, khiến thiên hạ không biết đường nào mà rờ.” Nếu như các ông hiểu như thế làm sao các ông có thể đạt được bình an? Nếu như gót chân chấm đất thì chẳng cách xa tơ hào. Há không nghe chuyện bảy hiền nữ đi qua Thi Da Lâm. Một người chỉ một thi thể hỏi, “ Thi thể ở đây, thế còn người thì ở đâu?” Người lớn nhất nói, “Cái gì, cái gì?” Lập tức tất cả đều chứng được vô sinh pháp nhẫn. Song trong ngàn người vạn người mới có được một người như thế.

Sau đó Tiệm Nguyên đến gặp Thạch Sương , kể lại câu chuyện kia. Thạch Sương nói, “Không bảo là sống mà cũng chẳng bảo là chết.” Tiệm Nguyên nói, “Tại sao lại không?” Thạch Sương nói, “ Nhất định không”. Tiệm Nguyên nghe thế bèn tĩnh ngộ. Một hôm Tiệm Nguyên nghe thế bèn tĩnh ngộ. Một hôm Tiệm Nguyên cầm cái xuổng vào Pháp đường đi từ đông qua tây rồi từ tây qua đông, ý muốn trình chỗ kiến giải của mình. Thạch Sương quả nhiên hỏi, “Ông làm gì vậy?” Tiệm Nguyên nói, “ Tìm linh cốt của các bậc tiên sư.” Thạch Sương bèn cắt đứt gót chân của Tiệm Nguyên, nói rằng “ Sóng cả chập chùng, ba đào tận trời. Ông kiếm linh cốt gì của các bậc tiên sư đây?” Tiệm Nguyên đang tìm linh cốt của các bậc tiên sư, Thạch Sương tại sao lại nói như thế với thầy ta? Đến chỗ này, nếu như các ông hiểu được câu” không bảo là sống mà cũng chẳng bảo là chết,”mới biết rằng từ đầu đến cuối toàn thụ dụng tất cả cơ duyên. Nêu như các ông lo lập nguyên tắc, so đo, trầm tư thì rất khó mà thấy được.

Tiệm Nguyên nói, “Chính vì thế mà phải nổ lực.” Nhìn xem sau khi ngộ rồi thầy ta mới nói được một cách tự nhiên làm sao. Một miếng xương gãy của Đạo Ngô như thể mầu vàng, lúc đánh vào kêu lên như tiếng đồng. Tuyết Đậu phê bình, “Trời ơi, trời ơi!” Ý của thầy ta rơi cả hai phía. Thái Nguyên Phù nói, “ Linh cốt của các bậc tiên sư vẫn còn đó.” Tự nhiên nói được một cách ổn thỏa. Song thử nói xem, đâu là chỗ cốt yếu? Phải nỗ lực như thế nào? Há không nghe nói rằng nếu như thấu được một chỗ thì lập tức thấu được ngàn vạn chỗ. Nếu như các ông hiểu thấu được câu “ không bảo là sống mà cũng chẳng bảo là chết” các ông làm líu lưỡi tất cả người trong thiên hạ. Nếu chưa hiểu thấu được thì cũng cần phải tự tham (Thiền) tự giác ngộ. Không thể sống nhàn nhã qua ngày, phải biết tiếc thời gian. Tuyết Đậu tụng rằng:

TỤNG

Thỏ ngựa có sừng,

Bò dê không sừng.

Đứt lông đứt đuôi,

Giống núi giống đỉnh.

Hoàng kim linh cốt hiện vẫn còn,

Ba đào tận trời biết để đâu?

Không cho để,

Chiếc dép về Tây[4]cũng mất rồi.

BÌNH: Tuyết Đậu rất khéo biết cách bỏ cước chú.Thầy ta là con cháu trong dòng của Vân Môn, có đủ cả búa kềm trong một câu đủ cả ba câu. Đối với những gì nói không được thầy ta nói rõ cả ra, những gì khai mở không được, thầy ta mở toang ra. Tụng ngay chỗ khẩn yếu ra rằng, “Thỏ ngựa có sừng, bò dê không sừng.” Thử nói xem tại sao thỏ ngựa có sừng, tại sao bò dê lại không có sừng? Chỉ khi nào hiểu thấu được câu chuyện trên các ông mới thấy được chỗ vì người của Tuyết Đậu.

Có người hiểu lầm nói rằng, “Không nói tức là nói, không câu là có câu. Thỏ ngựa không có sừng lại bảo là có sừng, bò dê có sừng lại bảo là không có sừng.” Song chẳng có gì là nhằm nhò cả. Đâu có biết rằng cổ nhân thiên biến vạn hóa, hiện thần thông như vậy, chẳng qua chỉ để đã phá cái hồn tinh hang quỉ của các ông mà thôi. Nếu như các ông hiểu được như thế, chẳng cần phải dùng đến chữ “Hiểu” nữa.” Thỏ ngựa có sừng, bò dê không sừng. Đứt lông đứt đuôi, giống núi giống đỉnh.” Bốn câu này giống như thể một viên ngọc ma-ni[5]. Tuyết Đậu đề ra ngay trước mặt cho các ông.

Đoạn cuối cùng của bài tụng là dựa vào sự kiệnkết thúc công án. “Hoàng kim linh cốt hiện vẫn còn, ba đào tận trời biết để đâu?” Câu này là để tụng lời của Thạch sương và Thái Nguyên Phù. Tại sao lại không có chỗ để? “Chiếc dép về Tây cũng mất rồi.” Con rùa thần lê lết cái đuôi. Đây chính là chỗ Tuyết Đậu xoay trở vì người khác. Cổ nhân nói, “Chỉ tham câu sống, chứ không tham câu chết.” Đã mất rồi thì tại sao mấy tay này lại cứ tranh cãi với nhau vậy kìa?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24031)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21755)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23331)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27521)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26587)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29354)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 20216)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 20945)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 29863)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 22162)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 24423)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29312)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 32185)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21103)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 21619)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28116)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 29231)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20643)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28324)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23676)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33230)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31878)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39669)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 19405)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26434)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24856)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21774)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 29167)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22583)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20489)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23560)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21261)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35377)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24576)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31376)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26254)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 31267)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20308)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22996)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30112)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21639)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20310)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 20812)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 28834)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34779)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 22590)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21408)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 19372)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 29555)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35208)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28858)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 37944)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21361)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 27057)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27258)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24101)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20884)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34350)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22520)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25163)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant