Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Bảy: Huệ Siêu Hỏi Về Phật

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15446)
Tắc thứ Bảy: Huệ Siêu Hỏi Về Phật

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 1

TẮC THỨ BẢY

HUỆ SIÊU HỎI VỀ PHẬT 

 

THÙY: Trước tiếng một câu, ngàn thánh không truyền. Chưa thấy rõ ra, như xa ngàn cõi. Dù cho ông có phân biện được nó trước khi có âm thanh thốt lên, làm tất cả thiên hạ phải líu lưỡi, ông vẫn chưa phải là một tay sắc bém. Cho nên mới nói rằng, “Trời không che hết, đất không chở nổi. Hư không không chứa nổi, trời trăng không chiếu được.”Chỗ không có Phật, mình được tôn xưng,mới bắt đầu một sợi lông, phóng đại quang minh, tung hoành ngang dọc, tự tại trong sự vật, bất cứ cái gì đụng tay vào, không có cái gì là không phải. Thử nói xem, đạt được cái gì mà lại kỳ đặc như thế? Lại nói, “Đại chúng có hiểu không?” Ngựa mệt thuở trước không ai biết, chỉ nói công lao chum cả trời. Bây giờ tạm gác việc này qua một bên, công án của Tuyết Đậu thì như thế nào? Xin thử nêu lên xem.

CỬ: Có ông tăng (Huệ Siêu) hỏi Pháp Nhãn, “Huệ Siêu xin hỏi hòa thượng , Phật là gì?” Pháp Nhãn nói, “Chú là Huệ Siêu.”

BÌNH: Pháp Nhãn có khả năng vừa đập vừa mổ, và lại biết sử dụng cái khả năng này cho nên mới đáp như thế được. Đó chính là siêu việt qua thanh sắc, đắc đại tự tại, túng đoạt sinh sát gì là ở nơi mình cả. Thầy ta quả thậtđặc sắc. Người ở các nơi bàn luận về công án này rất nhiều, số người lấy tri thức cảm quan ra hiểu nó cũng không phải là ít. Đâu có biết là mỗi khi cổ nhân dạy một câu hay một lời đều tựa như đá lửa điện chớp, mở thẳng ra một con đường chính.

Người đời sau chỉ dựa vào ngôn ngữ mà hiểu. Có kẻ nói, “Huệ Siêu chính là Phật cho nên Pháp Nhãn mới trả lời như thế.” Có người nói, “giống như thể đang cưỡi trâu mà lại đi tìm trâu.” Cũng có người nói, “Chính câu hỏi là vấn đề.” Những điều này có gì là nhằm nhò? Nếu hiểu như thế thì không những là tự phụ bạc mình mà còn làm khuất khúc cổ nhân biết mấy. Nếu như muốn thấy được trọn vẹn khả năng của Pháp Nhãn, ông phải là loại người bị đánh một gậy cũng không quay đầu, có răng như rừng kiếm miệng như bát máu, biết tìm lối về bên ngoài ngôn ngữ, thì mới có phần nào khế hợp. Nếu như ái nấy đều hiểu theo tri thức thường tình, thì cả trời đất này chỉ toàn là những kẻ làm diệt mất dòng dõi của Phật. Còn như Huệ Siêu giác ngộ ở đây, ấy là nhờ thầy ta lúc nào cũng quán chiếu tham cứu, cho nên chỉ nghe một lời là đã có thể như cái thùng bị đập lủng đáy.

Cũng như ông tăng giám viện Tắc tuy ở trong chúng hội của Pháp Nhãn song chưa từng xin nhập thất. Một hôm Pháp Nhãn hỏi ông ta, “Tại sao viện chủ không nhập thất?” Tắc đáp, “ Hòa thượng không biết là hồi ở với Thanh Lâm đệ tử có chứng được đôi chút sao?” Pháp Nhãn nói, “Ông thử kể lại cho tôi nghe xem.” Tắc nói, “Đệ tử hỏi Phật là gì?” Thanh Lâm nói “Bính Đinh đồng tử đến xin lửa.”Pháp Nhãn nói , “Lời hay lắm song tôi e rằng ông hiểu lầm. Thử nói gì nữa xem sao.” Tắc nói, “Bính Đinh là lửa, lấy lửa mà đi tìm lửa. Cũng như đệ tử đã là Phật rồi lại còn đi tìm Phật”.Pháp Nhãn nói, “ Quả nhiên là giám viện hiểu lầm rồi.” Tắc không vui mới thu dọn hành trang bỏ qua sông. Pháp Nhãn nói “ Người này nếu trở lại thì còn cứu được, nếu không trở lại thì không cứu được nữa.” Đến giữa đường Tắc tự suy gẫm: “người này là bậc thiện tri thức của năm trăm người, chẳng lẽ ông ta lại lừa mình sao?” Bèn trở lại, vào tham kiến Pháp Nhãn. Pháp Nhãn nói, “Ông cứ hỏi đi, tôi sẽ trả lời cho.” Tắc hỏi, “Phật là gì?”Pháp Nhãn nói, “Bính Đinh đồng tử đến xin lửa.”Nghe lời ấy Tắc bèn đại ngộ.

Thời buổi này có những kẻ trợn mắt làm như là hiểu. Cũng như câu nói: “không có vết thương đừng gây thương tích.” Loại công án này đối với những người có tham thiền từ lâu thì chỉ vừa mới nêu lên là đã hiểu ngay cốt yếu của nó. Trong dòng Thiền của Pháp Nhãn gọi loại công án này là “ tiễn phong tương trụ” (đầu mũi tên nhọn gặp nhau)[18].Họ không sử dụng phương phápngũ vị quân thần”[19]hay “tứ liệu giản”[20], mà chỉ nói về “tiễn phong tương trụ.” Đó chính là gia phong của Pháp Nhãn, trong một lời có thể thấy ngay hiểu ngay. Còn nếu như đi tìm trong ngôn ngữ rốt cuộc chẳng biết đâu mà rờ[21].

Pháp Nhãn ra mặt với đời đồ chúng có đến năm trăm người. Lúc ấy Phật pháp hưng thịnh vô cùng Thiều Quốc Sư tham học với Sơ Sơn đã lâu, tự cho là đắc ý chỉ của Sơ Sơn. Cho nên mới thu thập tất cả văn chương cùng với di ảnh của Sơ Sơn lãnh đạo một số đồ chúng đi hành cước. Đến nơi của Pháp Nhãn, chính Thiều không bao giờ nhập thất mà chỉ dạy cho đồ đề của mình túy theo những người khác mà nhập thất. Một hôm Pháp Nhãn thượng đường, có ông tăng hỏi, “Thế nào là một giọt nước từ Tào Khê?” Pháp Nhãn nói, “ Thì là một giọt nước từ Tào Khê.” Ông tăng hoang mang thối lui. Thiều Quốc Sư cũng có mặt trong chúng hộ, nghe thấy lời ấy hốt nhiên đại ngộ. Sau đó xuất hiện trên đời với tư cách là người thừa tự của Pháp Nhãn. Từng trình bày bài tụng rằng, “Đỉnh núi thông huyền , không phải nhân gian. Ngoài tâm không pháp, đầy mắt núi xanh.” Pháp Nhãn ấn khả rằng, “ Chỉ một bài tụng này thôi tự nhiên cũng đủ thừa lế tông phái của ta. Sau này thế nào ông cũng được các bậc vương hầu kính trọng, ta không bằng được ông”.

Hãy nhìn các bậc cổ nhân đạt giác ngộ như thế, rốt cuộc là gì vậy? Bảo sư núi tôi nói cho các ông đâu có đủ mà các ông cần phải tự mình suốt ngày tôi luyện tinh thần. Nếu các ông có thể đảm đương được như vậy, sau này các ông có thể thỏng tay vì người nơi ngã tư đường mà chẳng thấy gì là khó.

Cho nên khi ông tăng kia hỏi, “Huệ Siêu xin hỏi hòa thượng Phật là gì?” Pháp Nhãn nói, “Chú là Huệ Siêu.” Pháp Nhãn có chút gì phụ lòng ông tăng đâu? Không nghe Vân Môn nói sao? “ Nếu không xét, tức sai lầm. Toan so đo, đời nào ngộ?” Tuyết Đậu tụng hiển hách thật. Thử nêu lên xem!

TỤNG: 

Giang quốc gió xuân thổi không lên,

Chim sáo hót trong bụi hoa sầu.

Ba bực sóng cao cá hóa rồng,

Kẻ mê vẫn múc nước hồ đêm.

Tuyết Đậu đúng là tay thông thạo. Những cái khó nhai khó nuốt, khó thâu khó nhập của cổ nhân, thầy ta đều tung ra cho người khác thấy, kỳ đặc hết sức. Đã biết được then chốt của Pháp Nhãn lại nắm được cả cốt yếu của Huệ Siêu.Lại sợ người đời sau hiểu lầm lời lẽ của Pháp Nhãn, cho nên mới tụng ra. Ông tăng kia hỏi như vậy, Pháp Nhãn đáp như vậy, chính là “giang quốc gió xuân thổi không lên, chim sáo hót trong bụi hoa sâu.” Hai câu này chỉ là một câu. Thử nói xem, ý của Tuyết Đậu là ở đâu. Giang Tây Giang Nam thường có hai lối hiểu, cho nên nói “ Giang quốc gió xuân thổi không lên” là để tụng câu “ chú là Huệ Siêu.” Còn “chim sáo hót trong bụi hoa sâu” là để tụng các lời bàn tán huyên hoa của các phương, giống như thể tiếng chim sáo hót trong bụi hoa sâu. Song chẳng có gì là nhằm nhò cả. Đâu có biết rằng hai câu này của Tuyết Đậu chỉ là một câu. Không muốn có chỗ sơ hở nào cho nên mới nói với các ông, ngôn ngữ đã đến cùng cực, bao trùm trời đất. Ông tăng kia hỏi Phật là gì. Pháp Nhãn nói, “ chú là Huệ Siêu” Tuyết Đậu nói, “Giang quốc gió xuân thổi không lên, chim sáo hót trong bụi hoa sâu.” Nếu vào được chỗ này thì có thể lững thững lên trời cao.Nếu như ông dùng tri thức cảm quan mà hiểu thì ba đời sáu mươi kiếp cũng không xong.

Câu thứ ba và câu thứ tư của Tuyết Đậu quả là từ bi cùng tột vì người khác mà một lúc nói toạc ra. Siêu Thiền Sư nghe câu nói mà đại ngộ tức là “ba bực sóng cao cá hóa rồng, kẻ mê vẫn múc nước hồ đêm.” Cửa Vũ ba bực sóng, Mạnh Tân tức là Long Môn, Vũ Đế đục làm ba bực, ba ngày ba tháng. Lúc hoa đào nở, trời đất cảm ứng, có con cá vượt qua Long Môn trên đầu mọc sừng bờm râu tua bủa. cưỡi mây mà đi.Những con cá không nhảy qua sóng được thì bị điểm lên đầu mà trở về. Kẻ mê mờ lo nhai ngôn ngữ, giống y như là tát nước hồ ban đêm để bắt cá vậy. Đâu có hay rằng cá đã biến thành rồng đi mất hút rồi. Đoan hòa thượng tụng, “Một đồng tiền Đại Quang,mua được cái bánh rán. Ăn vào tới trong bụng lập tức không đói nữa.” Bài tụng này kỳ diệu lắm, chỉ có điều hơi vụng về. Tuyết Đậu tụng thật vi diệu, cho nên không bị mũi kiếm đâm vào tay. Giống như Tàng chủ Khánh hỏi, “Thế nào là “ba bực sóng cao cá hóa rồng”? Tôi cũng chẳng quan tâm, có điều tôi muốn hỏi ông, hóa thành rồng rồi bây giờ ở đâu?
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24031)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21755)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23328)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27519)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26583)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29347)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 20214)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 20943)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 29858)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 22152)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 24418)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29307)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 32182)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21095)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 21619)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28111)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 29224)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20640)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28317)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23672)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33222)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31875)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39663)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 19404)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26430)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24854)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21767)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 29164)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22583)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20484)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23560)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21253)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35371)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24569)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31372)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26251)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 31267)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20301)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22993)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30105)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21624)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20305)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 20806)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 28831)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34774)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 22585)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21405)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 19372)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 29549)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35205)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28855)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 37943)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21354)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 27057)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27255)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24095)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20878)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34343)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22516)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25157)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant