Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Hai Mươi Mốt: Hoa Sen Của Trí Môn

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15601)
Tắc thứ Hai Mươi Mốt: Hoa Sen Của Trí Môn

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 3

TẮC THỨ HAI MƯƠI MỐT

HOA SEN CỦA TRÍ MÔN

 

THÙY: Kiến pháp tràng, lập tông chỉ, trên gấm bầy hoa. Tháo cương gỡ yên, thái bình thời tiết. Nếu như phân biện được câu đặc biệt, thì nêu lên một là hiểu ba. Nếu như chưa được như vậy, thì hãy tiếp tục lắng nghe phân xử.

CỬ: Có ông tăng hỏi Trí Môn, “ Lúc hoa sen chưa ngoi lên khỏi mặt nước thì như thế nào?” Trí Môn nói, “Hoa sen”. Ông tăng lại hỏi, “Sau khi ngoi lên khỏi mặt nước rồi thì như thế nào?” Trí Môn nói, “Lá sen.”

BÌNH: Luận về việc ứng cơ tiếp vật, Trí Môn kể như cũng tới mức độ nào đó. Còn nếu luận về việc cắt đứt các dòng (kiến chấp) thì Trí Môn vượt xa hơn người khác đến ngàn dặm vạn dặm. song thử nói xem đóa hoa sen đã và chưa ngoi lên khỏi mặt nước này là một hay là hai? Nếu như thấy được như vậy là đã có được chỗ vào. Tuy thế song nếu bảo là một lập tức lầm lạc Phật tính mê mờ Chân như. Nếu bảo là hai, tâm cảnh đều chưa quên được, lạc vào con đường kiến giải (thiên chấp), biết bao giờ mới dứt?

Thử nói xem, ý của cổ nhân như thế nào? Kỳ thực chẳng có gì là rắc rối. cho nên Đầu Tử nói, “Chỉ đừng vương vào ngôn ngữ văn tự. Nếu như mình hiểu được mọi vật, tự nhiên là mình không bị chấp trước, tất nhiên là không có các sai biệt thứ vị. Mình nhiếp được tất cả các pháp, mà tất cả các pháp không nhiếp được mình. Vốn đâu có được mất, huyền ảo, với lắm thứ danh mục như thế. Không thể cưỡng lập danh tự cho các pháp. Như thế thì làm sao mà các ông có thể bị lừa dối được? Các ông hỏi, cho nên đã có ngôn ngữ. Nếu như các ông không hỏi, tôi biết phải nói gì với các ông mời được đây? Tất cả mọi chuyện đều là do các ông gây ra, đều chẳng có gì can hệ đến tôi cả.” Cổ nhân nói, “ Muốn hiểu Phật tính thì phải quán thời tiết nhân duyên.”

Há không nghe Vân Môn thuật câu chuyện: có ông tăng hỏi Linh Vân, “Lúc Phật chưa xuất thế thì như thế nào?” Linh Vânphất trần lên. Ông tăng hỏi, “Thế sau khi (Phật) xuất thế rồi thì như thế nào?” Linh Vân lại dơ phất trần lên. Vân Môn nói, “ Lần đầu thì đánh được, lần sau đánh không được.” Lại nói, “Đừng nói tới chuyện xuất thế với không xuất thế, ở đâu có cái lúc mà ông ta hỏi?”

Cổ nhân một hỏi một đáp, hợp thời hợp lúc, chẳng hề nhiều chuyện. Nếu như các ông cứ lo tìm lời đuổi câu thì chẳng bao giờ nhằm nhò đến vấn đề cả. Nếu như các ông có thể nhìn thấu được ngôn ngữ trong ngôn ngữ, hiểu thấu được ý trong ý, nhìn thấu được cơ duyên trong cơ duyên, buông bỏ tự tại, lúc ấy mới thấy được câu trả lời của Trí Môn.

Hỏi, “ Lúc Phật chưa xuất thế thì như thế nào?” Lúc Ngưu Đầu chưa gặp Tứ Tổ thì như thế nào? Lúc hỗn độn chưa phân trong bàn thạch thì như thế nào? Lúc cha mẹ chưa sinh thì như thế nào?[1] Vân Môn nói, “Từ xưa đến nay chỉ là một sự việc. Không có đúng không có sai, không có được cũng không có mất, không có sinh không có chưa sinh.” Đến đây cổ nhân đặt ra một con đường có chỗ vào có chỗ ra. Nếu là người chưa hiểu, thì cững giống nhhư dựa hàng rào mò vách tường, nép bên cỏ nương vào cây. nếu bảo hắn buông bỏ, hắn lại lạc vào hoang vu lãng đãng. Nếu như người đã hiểu được thì suốt mười hai giờ trong một ngày chẳng cần phải dựa vào vật gì cả. Tuy không dựa vào một vật gì, nếu nhu để lộ một cơ một cảnh, biết làm sao mà rờ rẫm đây?

Ông tăng kia hỏi, “Lúc hoa sen chưa ngoi khỏi mặt nước thì như thế nào?” Trí Môn nói, “Hoa sen”. Đó chỉ là một câu đáp chặn câu hỏi, song đặc sắc hết sức. Các nơi đều gọi đó là “điên đảo ngữ”. Tại sao lại thế? Há không nghe Nham Đầu nói, “ Thường thì những lúc trước khi các ông mở miệng mà lại còn hay hơn.” Chỗ cổ nhân để lộ tâm cơ ra, cũng là lậu đậu lắm rồi. Người học đời nay không hiểu ý của cổ nhân, chỉ mãi lo lý luận “ ngoi lên khỏi mặt nước” với lại “ chưa ngoi lên khỏi mặt nước,” song có gì là nhằm nhò đâu.

Há không nghe chuyện có ông tăng hỏi Trí môn, “ Thế nào là bát nhã thể?” Trí Môn nói, “ Sò ngậm trăng sáng.” Ông tăng hỏi, “Thế nào là bát nhã dụng?” Trí Môn nói, “Con thỏ mang thai.” Nhìn xem thầy ta đối đáp như thế, người trong thiên hạ chẳng ai truy ra được ngữ mạch của thầy ta cả.

Có ông tăng hỏi Giáp Sơn, “Lúc hoa sen chưa ngoi khỏi mặt nước thì như thế nào?” Giáp Sơn chỉ nói, “Cột nhà đèn giấy.” Thử nói xem là giống hay khác với hoa sen? Ông tăng hỏi, “ Sau khi ngoi lên khỏi mặt nước rồi thì như thế nào?” Giáp Sơn nói, “Đầu trượng khua nhật nguyệt, dưới chân bùn quá sâu.” Các ông thử nói xem đúng hay sai? Song đừng có nhận lầm là điểm giữa cán cân. Tuyết Đậu từ bi cùng tột, phá vỡ hết kiến chấp của người ta cho nên mới tụng như sau:

TỤNG

Hoa sen lá sen cho ngài biết

Ngoi lên sao bằng lúc chưa ngoi?

Giang Bắc Giang Nam hỏi Vương lão[2]

Một hồ nghi rồi một hồ nghi.

BÌNH: Trí Môn vốn là người Chiết Giang, phấn khởi đến Tứ Xuyên để gặp Hương Lâm. Sau khi thấu triệt (Thiền) rồi mới về ở Trí Môn, Tùy Châu. Tuyết Đậu thuộc dòng của Trí Môn, thấy được chỗ tận cùng trong cái huyền diệu của Trí Môn cho nên mới nói thẳng, “Hoa sen lá sen cho ngài biết, ngoi lên sao bằng lúc chưa ngoi?” Muốn cho người khác hiểu trực tiếp.

Sư núi tôi nói, “Lúc chưa ngoi lên khỏi mặt nước thì như thế nào? Cột nhà đèn giấy. Sau khi đã ngoi lên khỏi mặt nước rồi thì như thế nào? Đầu trượng khua nhật nguyệt, dưới chân bùn quá sâu.” Song các ông đừng nhận lầm đó là điểm giữa cán cân. Ngày này thiên hạ lo nhai cắn ngôn ngữ không biết tới bao giờ.

Thử nói xem lúc (hoa sen) ngoi lên khỏi mặt nước rồi thì là thời tiết gì vậy? Lúc chưa ngoi lên khỏi mặt nước thì là thời tiết gì vậy? Nếu như các ông có thể thấy được điểm này, tôi để cho các ông gặp thẳng Trí Môn đấy.

Tuyết Đậu nói nếu như các ông không thấy thì “Giang Bắc Giang Nam hỏi Vương lão.” Tuyết Đậu ý muốn nói là các ông phải đi quanh Giang Bắc Giang Nam để hỏi các vị tôn túc về “ngoi lên khỏi mặt nước rồi” và “chưa ngoi lên khỏi mặt nước.” Giang Nam thêm vào hai câu, Giang Bắc thêm vào hai câu, một gánh thêm một gánh, triển chuyển sinh nghi. Thử nói xem, khi nào các ông mới hết nghi được? Các ông đã nghi như thể chồn hoang, đi trên băng mỏng; lắng nghe tiếng nước (ở dưới). Nếu như không có tiếng gì thì mới qua sông được. Nếu như các người học Thiền mà cứ sinh hết mối nghi này đến mối nghi khác, bao giờ mới được yên ổn đây?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24031)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21755)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23328)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27519)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26584)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29348)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 20214)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 20944)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 29859)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 22154)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 24418)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29308)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 32182)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21095)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 21619)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28111)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 29226)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20640)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28318)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23674)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33223)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31875)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39664)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 19405)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26430)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24854)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21767)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 29164)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22583)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20485)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23560)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21254)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35374)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24570)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31373)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26252)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 31267)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20303)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22993)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30107)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21627)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20306)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 20806)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 28831)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34774)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 22585)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21405)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 19372)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 29550)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35205)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28856)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 37944)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21357)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 27057)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27256)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24095)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20880)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34346)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22516)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25158)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant