Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Tám Mươi Lăm: Con Cọp Của Đồng Phong Am Chủ

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15320)
Tắc thứ Tám Mươi Lăm: Con Cọp Của Đồng Phong Am Chủ

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 9

TẮC THỨ TÁM MƯƠI LĂM

CON CỌP CỦA ĐỒNG PHONG AM CHỦ

 

THÙY: Cầm chắc thế giới không hở chút nào, khiến cho tất cả mọi người trên đời đánh mất sự sắc bén và líu cả lưỡi. Đó chính là chính lệnh của các nạp tăng. Phòng ánh sánh từ giữa trán ra chiếu sáng khắp bốn phương thiên hạ, đó chính là con mắt kim cương của nạp tăng. Điểm sắt thành vàng điểm càng thành sắt, bỗng nắm bỗng buông, đó chính là cây gậy của nạp tăng. Làm líu lưỡi tất cả người trong thiên hạ cho đền nỗi họ không có chỗ mà thở ra, phải lùi lại ba ngàn dặm. Đó chính là khí chất của nạp tăng. Thử nói xem, nếu không như thế này thì rốt cuộc là người như thế nào? Thử nêu lên xem.

CỬ: Có ông tăng đến nơi của Đồng Phong Am Chủ rồi hỏi, “Ở chỗ này nếu hốt nhiên gặp cọp thì phải làm như thế nào?” Đồng Phong bèn gầm lên như cọp. Ông tăng bèn làm ra vẻ sợ hãi. Đồng Phong bật cười ha hả. Ông tăng nói, “Cái lão tặc này.” Đồng Phong nói, “Thế ông làm gì được lão tăng nào?”

Tuyết Đậu nói, “Kể ra thì cũng được, song hai tên ác tặc này chỉ biết bịt tai để ăn trộm chuông mà thôi.”

BÌNH: Từ tông phái Đại Hùng (của Bách Trượng Hoài Sản) sản xuất ra được bốn vị am chủ: Đại Mai, Bạch Vân, Hồ Khe và Đồng Phong.

Nhìn xem hai người này mắt biết nhìn tay biết hành động làm sao! Thử nói xem rắc rối ở chỗ nào? Cổ nhân một cơ một cảnh một ngôn một cú tuy rằng chỉ lâm thời xuất ra song rất là sống động bởi vì mắt họ luôn luôn bao trùm và chính xác. Tuyết Đậu niêm để giúp cho thiên hạ biết tà chính, biện đắc nhất. Tuy là thế, song ở nơi con người đã đạt đạo dù là sống ở chỗ đắc thất mà chẳng hề có đắc thất. Nếu các ông lấy đắc thất ra để mà nhìn cổ nhân thì chẳng có gì là nhằm nhò cả. Người thời nay, ai cũng nên hiểu cho đến tận cùng chỗ đắc thất, rồi sau đó hãy lấy đắc thất ta mà biện nhận. Nếu cứ xử dụng tâm ở chỗ so đo ngôn cú thì đến bao giờ mới được.

Há không nghe Vân Môn Đại Sư nói. “Những người hành cước đừng chỉ du hành phắp nơi một cách lãng phí, chỉ mong so đo ngôn cú. Ngay khi lão hòa thượng nào đó vừa mở miệng là các ông đã hỏi Thiền hỏi đạo, hỏi việc hướng thượng hướng hạ, hỏi cái gì và như thê nào, viết những sớ sao dầy cộm màn nhét vào trong bụng. Đến đâu cũng tụm ba bên lò lửa rồi là nói huyên thuyên. Nào là đây là những lời biện tài, đây là những lời đề cập đến thân, đây là những lời về sự vật, đây là những lời từ thể tính. Lo tìm hiểu các bậc cha mẹ trong tông môn của mình. Nuốt xong miếng cơm là chỉ lo nói mộng rằng, “Tôi hiểu Phật pháp.’ Nếu như các ông hành cước với những ý niệm như thế thì có đến năm con lừa cũng chẳng xong.”

Cổ nhân tạm thời niêm lộng, há có kiến chấp về thắng bại đắc thất thị phi sao? Đồng Phong đã từng gặp Lâm Tế.Lúc ấy Đồng Phong xây am trong rừng sâu. Ông tăng này đến đó rồi hỏi, “Ở chỗ này nếu hốt nhiên gặp cọp thì phải làm như thế nào?” Đồng Phong bèn gầm lên như cọp, thầy ta dựa vào sự kiện mà hành động. Ông tăng này cũng biết lấy sai lầm ra đối đãi với sai lầm cho nên mới làm ra vẻ sợ hãi. Đồng Phong bèn bật cười ha hả. Ông tăng nói, “Cái lão tặc này.” Đồng Phong nói, “Thế ông àm gì được lão tăng nào?” Đúng thì đúng song cả hai đều không hiểu thấu. Cho nên từ thiên cổ đến nay thường bị thiên hạ phê bình. Tuyết Đậu nói, “Kể ra thì cũng được, song hai tên ác tặc này chỉ biết bịt tai để ăn trộm chuông mà thôi.” Tuy rằng cả hai đều là kẻ trộm, song gặp cơ lại chẳng dụng được; cho nên họ mới giống như những kẻ bịt tai để ăn trộm chuông. Hai lão này giống như bầy trận với trăm vạn quân, song lại chỉ tranh nhau cái chổi.

Nếu như muốn luận về sự việc này thì phải có khả năng giết người không chớp mắt mới được. Nếu như các ông xưa nay chỉ biết buông mà không biết giữ, chỉ biết sát mà không biết hoạt, khó mà tránh bị thiên hạ cười chê. Tuy là thế osng các cổ nhân cũng chẳng có đa sự gì. Nhìn xem hai người họ, đều là thấy cơ mà hành động Ngũ Tổ nói về thần thông duhí tam muội, huệ cự tam muội, trang nghiêm vương tam muội. Chỉ vì người đời sau gót chân không chấm đất, chỉ trích cổ nhân nói rằng có đắc có thất. Có kẻ nói rõ rằng là Đồng Phong Am Chủ bị trật khờp song chẳng có gì là nhằm nhò.

Tuyết Đậu nói, “Khi hai người này gặp nhau cả hai đều có chỗ buông bỏ. Ông tăng kia nói, “Ở đây hốt nhiên gặp cọp thì phải như thế nào?” Đồng Phong bèn gầm lên như cọp, đó chính là buông bỏ. Cho đến khi nói, “Ông làm gì được lão tăng nào?” Đây cũng là buông bỏ. Mỗi hành động đều rơi vào cơ thứ nhì. Tuyết Đậu nói” Muốn dụng thì dụng.” Người đời này nghe nói như thế bèn nói rằng lúc ấy Đồng Phong đang thi hành lệnh. Song cũng không được mù quánggia hình phạt.

Đức Sơn đánh bất cứ kẻ nào mới nhập môn, Lâm Tế thì hét lên với bất cứ kẻ nào mới nhập môn. Thử nói xem, ý của các cổ nhân là gì? Cuối cùng Tuyết Đậu cũng chỉ tụng ra như thế. Thử nói xem, rồt cuộc phải làm thế nào để tránh khỏi” bịt tai đi ăn trộm chuông.”

TỤNG

Thấy mà không nắm,

Ngàn dặm suy nghĩ.

Thật là sặc sỡ,

Chưa đủ móng răng.

Há không thấy Đại Hùng sơn hạ hốt tương phùng?

Âm thanh ánh sáng rung trời đất,

Đại trượng phu có thấy không?

Nắm đuôi cọp hề vuốt râu cọp.

BÌNH: “Thầy mà không nắm, ngàn dặm suy nghĩ.” Chính vào lúc nguy hiểm ông tăng kia lại không sử dụng được. Lúc Đồng Phong nói, “ Thế ông làm gì được lão tăng nào?” Lẽ ra ông tăng phải trả miếng. Lúc ấy nếu như ông ta trổ được tài nghệ của mình ra, hẳn ông ta đã có lời cuối cùng. Hai người chỉ biết buông bỏ mà không biết thu vào. “Thấy mà không nắm” thì nó đã mây trắng ngoài ngàn dặm rồi. Tại sao còn phải nói “ngàn dặm suy nghĩ”?

“Thật là sặc sỡ, chưa đủ móng răng.” Đúng thì có đúng, song cọp cũng biết giấu răng thu móng. Làm gì được khi mà nó không biết cắn người.

“Há không thấy Đại Hùng sơn hạ hốt tương phùng? Âm thanh ánh sáng rung trời đất.” Một hôm Bách Trượng hỏi Hoàn Bá, “Từ đâu tới?” Hoàng Bá nói, “Đi hái nấm từ dưới núi tới.” Bách Trượng nói, “Có thấy cọp không?” Hoàng Bá bèn gầm lên như cọp. Bách Trượng bèn rút búa ở bên hông ra làm thế như thể đang chém. Hoàng Bá nắm chặt lấy roi đánh Bách Trượng. Chiều đến Bách Trượng thượng đường nói, “ Dưới núi Đại Hùng có một con cọp, các ông ra vào phải nên nhìn kỹ. Hôm nay chính lão tăng vừa bị nó cắn cho một miếng.”

Sau đó Qui Sơn hỏi Ngưỡng Sơn, “Câu chuyện cọp của Hoàng Bá có nghĩa là gì?” Ngưỡng Sơn nói, “Thế tôn ý của hòa thượng thì như thế nào?” Ngưỡng Sơn nói, “Lúc ấy lẽ ra Bách Trượng phải chém một búa cho rồi, thì đâu có đến nỗi như bây giờ?” Ngưỡng Sơn nói, “Không phải như thế.” Qui Sơn nói, “Thế thầy nghĩ sao?” Ngưỡng Sơn nói, “Không những thầy ta cưỡi đầu cọp mà còn biết nắm đuôi cọp.” Qui Sơn nói, “Huệ Tịch quả thật có rất nhiều câu vời vợi quá.” Tuyết Đậu dẫn dụng để giải minh công án trên kia.

“Âm thanh ánh sáng rung trời đất.” Cái này chuyển biến tự tại. Tuyết Đậu muốn trong câu có con đường xuất thân. “Đại trượng phu có thấy hay không?” Các ông có thấy không? “Nắm đuôi cọp hề vuốt râu cọp.” Cần phải là phận sự của riêng mìn. Dù cho các ông có nắm đuôi cọp vuốt râu cọp, cũng khó tránh khỏi một lúc bị xỏ lỗ mũi.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24030)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21755)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23328)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27519)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26583)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29344)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 20213)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 20943)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 29856)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 22152)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 24417)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29304)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 32180)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21094)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 21619)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28111)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 29224)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20639)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28316)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23670)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33219)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31872)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39662)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 19404)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26428)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24853)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21762)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 29160)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22583)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20481)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23559)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21252)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35368)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24567)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31368)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26250)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 31266)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20300)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22991)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30104)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21622)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20304)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 20805)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 28826)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34774)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 22583)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21402)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 19371)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 29546)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35205)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28852)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 37943)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21354)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 27057)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27251)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24094)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20875)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34343)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22513)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25152)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant