Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Mười Chín: Ngón Tay Thiên Của Câu Chi

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15472)
Tắc thứ Mười Chín: Ngón Tay Thiên Của Câu Chi

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 2

TẮC THỨ MƯỜI CHÍN

NGÓN TAY THIỀN CỦA CÂU CHI

 

THÙY: Một hạt bụi bay gom cả trời đất, một đóa hoa nở cả thế giới mở. Có điều trước khi hạt bụi bay lên và đóa hoa nở ra thì người ta phải nhìn như thế nào? Cho nên mới có câu nói, “Như cắt một cuộn chỉ, một sợi bị cắt là cả cuộn bị cắt. Như nhuộm một cuộn chỉ, một sợi bị nhuộm là cả cuộn bị nhuộm.”

Hiện giờ phải cắt đứt hết các dây dưa. Sử dụng hết gia tài trong nhà ra mà ứng với hoàn cảnh, cao thấp trước sau không hề sai biệt. Lúc ấy mọi cái sẽ hiện thành, thảng hoặc chưa được như thế, xin xem văn dưới đây.

CỬ: Câu Chi hòa thượng mỗi khi có ai hỏi gì chỉ dơ một ngón tay lên.

BÌNH: Nếu như dựa vào ngón tay mà hiểu là phụ lòng Câu Chi; còn nếu không dựa vào ngón tay mà hiểu thì cũng tựa như đục sắt vậy. Hiểu cũng thế mà không hiểu cũng thế, cao cũng thế mà thấp cũng thế, đúng cũng thế mà sai cũng thế. Cho nên mới có câu nói, “Một hạt bụi bay gom cả trời đất, một đóa hoa nở cả thế giới khởi, một con sư tử trên đầu một sợi lông hiện ra trên hàng tỉ sợi lông.”[28]

Viên Minh nói, “Lạnh thì cả trời đất lạnh, nóng thì cả trời đất nóng.” Sơn hà đại địa xuống tận suối vàng, sâm la vạn tượng lên tận trời cao. Thử nói xem, đây là cái gì và có gì là kỳ quái? Nếu như hiểu được thì chẳng có gì đáng ra sức, nếu như không hiểu được thì sẽ bị tắc nghẽn cả.

Câu Chi hòa thượng là người Kim Hoa Sơn thuộc Vụ Châu. Thuở xưa lúc Sư còn ở trong thảo am có một bà ni tên là Thực Tế đến nơi am của Sư. Vào thẳng bên trong, khnôg buồn cởi nón ra mà chỉ cầm tích trượng đi quanh giường Thiền ba vòng nói, “Nếu thầy nói được thì tôi cởi nón.” Hỏi như thế ba lần, Câu Chi không trả lời được. Bà ni bèn bỏ đi. Câu Chi nói, “ Trời cũng đã tối rồi, cô nghỉ lại một đêm cũng được.” Bà ni lại nói, “ Nếu thầy nói được thì tôi sẽ nghĩ lại.” Câu Chi thở dài nói, “ Ta tuy ở trong thân thể của bậc trượng phu, mà thiếu mất cái khí khái của bậc trượng phu.” Rồi phát phẫn nhất định phải tìm hiểu vấn đề này.

Sau đó Sư bèn nghĩ đến việc bỏ am mà đi các nơi để tham vấn các thiện tri thức, cho nên chuẩn bị sẵn sàng để hành cước. Đêm ấy sơn thần nói với Sư rằng, “ Thầy không cần phải rời nơi này, ngày mai sẽ có vị nhục thân Bồ tát đến đây thuyết pháp cho thầy, thầy không cần phải đi đâu cả.” Hôm sau quả nhiên Thiên Long hòa thượng đến am của sư. Câu Chi bèn tiếp đón với đầy đủ nghi lễ và kể lại chuyện hôm trước. Thiên Long chỉ dơ một ngón tay lên cho Câu Chi. Câu Chi hốt nhiên đại ngộ. Vì lúc ấytrịnh trọngchuyên chú cho nên đáy thùng mới dễ rơi ra như thế. Sau này bất cứ có ai hỏi gì Câu Chi cũng chỉ dơ một ngón tay lên.

BÌNH: Nếu như dựa vào ngón tay mà hiểu là phụ lòng Câu Chi; còn nếu không dựa vào ngón tay mà hiểu thì cũng tựa như đục sắt vậy. Hiểu cũng thế mà không hiểu cũng thế, cao cũng thế mà sai cũng thế. Cho nên mới có câu nói, “Một hạt bụi bay gom cả trời đất, một đóa hoa nở cả thế giới khởi, một con sư tử trên đầu một sợi lông hiện ra trên hàng tỉ sợi lông.”[29]

Viên Minh nói, “ Lạnh thì cả trời đất lạnh, nóng thì cả trời đất nóng.” Sơn hà đại địa xuống tận suối vàng, sâm la vạn tượng lên tận trời cao. thử nói xem, đây là cái gì và có gì là kỳ quái? Nếu như hiểu được thì chẳng có gì đáng ra sức, nếu như không hiểu được thì sẽ bị tắc nghẽn cả.

Câu Chi hòa thượng là người Kim Hoa Sơn thuộc Vụ Châu. Thuở xưa lúc Sư còn ở trong thảo am có một bà ni tên là Thực Tế đến nơi am của Sư. Vào thẳng bên trong , không buồn cởi nón ra mà chỉ cầm tích trượng đi quanh giường Thiền ba vòng nói, “ Nếu thầy nói được thì tôi cởi nón.” Hỏi như thế ba lần, Câu Chi không trả lời được. Bà ni bèn bỏ đi.Câu Chi nói, “ Trời cũng đã tối rồi, cô nghỉ lại một đêm cũng được.” Bà ni lại nói, “ Nếu thầy nói được thì tôi sẽ nghĩ lại.” Câu Chi lại cũng không nói gì được. Bà ni bỏ đi. Câu Chi thở dài nói, “ Ta tuy ở trong thân thể của bậc trượng phu, mà thiếu mất cái khí khái của bậc trượng phu.” Rồi phát phẫn nhất định phải tìm hiểu vấn đền này.

Sau đó Sư bèn nghĩ đến việc bỏ am mà đi các nơi đế tham vấn các thiện tri thức, cho nên chuẩn bị sẵn sàng để hành cước. Đêm ấy sơn thần nói với Sư rằng, “ Thầy không cần phải rời nơi này, ngày mai sẽ có vị phục thân Bồ Tát đến đây thuyết pháp cho thầy, thầy không cần phải đi đâu cả.” Hôm sau quả nhiên Thiên Long hòa thượng đến am của Sư. Câu Chi bèn tiếp đón với đầy đủ nghi lễ và kể lại chuyện hôm trước. Thiên Long chỉ dơ một ngón tay lên cho Câu Chi. Câu Chi hốt nhiên đại ngộ. Vì lúc ấytrịnh trọngchuyên chú cho nên đáy thùng mới dễ rơi ra như thế. Sau này bất cứ có ai hỏi Câu Chi cũng chỉ dơ một ngón tay lên.

Trường Khánh nói, “Đồ ăn ngon không để nuôi người no.” Huyền Giác nói, “ Huyền Sa nói như thế có nghĩa là gì?” Vân Cư Tích nói, “ Huyền sa nói như thế là chấp nhận hay không chấp nhận Câu Chi? Nếu chấp nhận tại sao lại nói là sẽ bẻ gãy ngón tay? Nếu không chấp nhận, thì Câu Chi lầm ở chỗ nào?” Tào sơn Bổn Tịch nói, “ Chỗ tiếp thu của Câu Chi có hơi sơ sài. Chỉ hiểu được một phương tiện một viễn cảnh mà thôi. Thầy ta chỉ biết vỗ tay xoa tay, ta thấy Tây Viên mới là đặc biệt.”[30] Huyền Giác lại nói, “ Thử nói xem, Câu Chi có ngộ hay không? Tại sao lại nói là chỗ tiếp thu của thầy ta có hơi sơ sài?” Nếu như chưa ngộ thì tại sao thầy ta lại nói, “ Ta bình sinh chỉ dùng một ngón tay Thiền mãi không hết.” Thử nói xem, ý của Tào Sơn là gì?

Lúc ấy đương nhiên Câu Chi không hiểu, đến lúc sau khi thầy ta ngộ rồi, bất cứ có ai hỏi gì Câu Chi cũng chìa đưa một ngón tay lên. Tại sao mà ngàn người vạn người không bẫy thầy ta hay không đập tan được (phương tiện) của thầy ta? Nếu như các ông hiểu theo ngón tay, nhất định là các ông không hiểu được ý của cổ nhân. Loại Thiền này dễ tham song khó hiểu. Người thời buổi này vừa bị hỏi đã dơ ngón tay dơ nắm tay, ấy chỉ là dở trò ma quỉ mà thôi. Cần phải thấu xương thấu tủy nhìn tận vào (vấn đề) thì mới hiểu được.

Trong am của Câu Chi có một đồng tử. Lúc ra ngoài có người hỏi, “ Bình thường hòa thượng của chú dùng phương pháp gì để dạy thiên hạ?” Đồng tử do ngón tay lên. Lúc về thuật lại cho Câu Chi, Câu Chi lấy dao cắt ngón tay đồng tử. Đồng tử vừa kêu ầm ĩ vừa chạy, Câu Chi gọi đồng tử. Đồng tử quay lại, Câu Chi bèn dơ ngón tay lên. đồng tử thoát nhiên hiểu thấu. Thử nói xem, đồng tử thấy được đạo lý gì vậy? Lúc sắp mất, Câu Chi dạy chúng rằng, “ Ta đắc được nơi Thiên long một ngón tay Thiền cả đời dùng không hết. Các ông có muốn hiểu chăng? Rồi dơ ngón tay lên mà mất.

Sau này độc Nhãn Long Minh chiếu hỏi sư thúc là Quốc Thái Thâm rằng, “ Cổ nhân nói Câu Chi chỉ đọc ba dòng chữ mà được tiếng vượt hơn mọi người. Làm thế nào có thể nêu ba dòng chữ kia lên cho thiên hạ được?” Thâm cũng dơ một ngón tay lên. Minh Chiếu nói, “ Nếu không nhân ngày hôm nay , làm sao tôi quen được người khách Qua Châu?” Thử nói xem, ý thầy ta muốn nói gì?

Bí Ma bình sinh chỉ dùng một cái chỉa ba. Đả Địa hòa thượng bình sinh bất cứ có ai hỏi gì cũng chỉ đầp xuống đất một cái. Sau này có người giấu mất cái gậy của thầy ta đi rồi hỏi, “ Phật là gì?” Đả Địa chỉ há to miệng ra . Đây cũng là những phương pháp mà cả đời dùng không hết.

Vô Nghiệp nói, “ Tổ Đạt Ma quán thấy đất này (Trung Hoa) có căn khí đại thừa, nên truyền tâm ấn để chỉ dạy những kẻ lạc nẻo mê. Những người đắc được (tâm ấn) chẳng còn phải so đo giữa ngu với trí, phàm với thánh. Nhiều giả không bằng một chút thật. Kẻ đại trượng phu hẳn sẽ lập tức ngơi nghỉ ngay, dứt bặt vạn duyên, vượt qua dòng sinh tử, thoát ra ngoài các khuôn khổ bình thường. Dù có quyến thuộc trang nghiêm đi nữa, không cần cầy mà tự nhiên đắc. “ Vô nghiệp bình sinh bất cứ có ai hỏi gì cũng chỉ nói, “Đừng vọng tưởng.” Cho nên mới có câu nói, “ Thầu được một đối tượng thì ngàn vạn đối tượng trong một lúc thấu được cà. Hiểu được một phương tiện, thì đột nhiên hiểu được ngàn vạn phương tiện.”

Người bây giờ thì không như thế, chỉ chìm đắm trong ý niệmkiến chấp, không hiểu được chỗ giác ngộ của cổ nhân. Câu Chi há không có phương pháp nào để thay đổi sao? Tại sao lại chỉ dùng một ngón tay? Cần phải biết rằng chính ở chỗ này mà Câu Chi vì người khác một cách sâu xa mật thiết làm sao!

Các ông có muốn biết phương pháp giữ gìn sức lực không? Trở lại với câu nói của Viên Minh, “Lạnh thì cả trời đất lạnh, nóng thì cả trời đất nóng.” Sơn hà đại địa vượt lên lừng lững, sâm la vạn tượng trườn xuống gập ghềnh. Biết tìm một ngón tay Thiền ở đâu đây?

TỤNG: 

Thâm ái Câu Chi khéo dạy người

Vũ trụ vốn không nào có ai?

Từng thả nhánh bè trong biển lớn,

Sóng đêm đẩy tới con rùa mù.

BÌNH: Tuyết Đậu rất là thông thạo văn chương. Thầy rất thích tụng các công án bí hiểm.” Thâm ái Câu Chi khéo dạy người,vũ trụ vốn không nào có ai?” Học giả ngày nay khen chê cổ nhân, hoặc chủ hoặc khách, một vấn một đáp, Tuyết Đậu nêu lên ngay cả, đó chính là cách giúp người khác của thầy ta. Cho nên mới nói, “ Thâm ái Câu Chi khéo dạy người.” Thử nói xem, tại sao Tuyết Đậu lại thương mến Câu Chi? kể từ tạo thiên lập địa đến nay từng có ai? Chỉ có một mình lão Câu Chi mà thôi. Nếu như là người khác thế nào cũng ôm đồm, chỉ có mình Câu Chi là có thể dùng một ngón tay Thiền cho đến khi già chết.

Người ta thường giải thích lầm lạc rằng, “ Sơn hà đại địa cũng không, nhân cũng không, pháp cũng không. Dù cho vũ trụ đột nhiên biến thánh không thì cũng chỉ còn một mình lão Câu Chi này mà thôi.” Song chẳng có gì nhằm nhò đến công án này cả.

“Từng thả nhánh bè trong biển lớn.” Ngày nay người ta gọi đó là biển sinh tử. Chúng sinh ngụp lặn trong biển nghiệp, không hiểu rõ chính mình, chẳng bao giờ thoát khỏi được. câu Chi dùng từ bi mà tiếp vật, ở trong biển sinh tử dùng một ngón tay Thiền mà cứu thiên hạ, giống như thể ném nhánh cây nổi xuống để cứu con rùa mù, khiến chúng sinh qua được bờ bến kia.

“Sóng đêm đẩy tới con rùa mù.” Kinh Pháp Hoa nói, “Như con rùa chột bám vào nhánh cây nổi mà thoát khỏi chết chìm.” Khi bậc thiện tri thức tiếp được một kẻ như rồng như cọp, khiến gã hướng về thế giới có Phật để cùng làm chủ khách, về thế giới không có Phật để cắt đoạn đường nối. Tiếp được con rùa mù thì làm được gì?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24031)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21755)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23328)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27519)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26583)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29345)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 20213)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 20943)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 29857)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 22152)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 24418)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29307)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 32181)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21094)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 21619)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28111)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 29224)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20640)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28317)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23671)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33219)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31874)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39662)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 19404)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26429)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24854)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21764)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 29161)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22583)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20482)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23560)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21252)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35370)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24569)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31371)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26251)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 31266)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20301)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22991)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30104)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21622)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20305)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 20806)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 28827)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34774)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 22583)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21403)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 19372)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 29546)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35205)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28855)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 37943)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21354)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 27057)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27252)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24095)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20877)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34343)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22514)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25154)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant