Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Chín Mươi: Bát Nhã Thể Của Trí Môn

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15606)
Tắc thứ Chín Mươi: Bát Nhã Thể Của Trí Môn

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 9

TẮC THỨ CHÍN MƯƠI

BÁT NHÃ THỂ CỦA TRÍ MÔN

 

THÙY:Một câu trước tiếng, ngàn thánh không truyền. Một sợi trước mặt, mãi mãi không dứt. Tự tại thánh thoát, tóc rối bời tai chăm chú. Thử nói xem là gì vậy? Thử nêu lên xem.

CỬ: Có ông tăng hỏi Trí Môn, “Bát nhã thể là gì?” Trí Môn nói, “Sò ngậm trăng sáng.” Ông tăng hỏi, “Bát nhã dụng là gì,” Trí Môn nói, “Con thỏ mang thai.”

BÌNH: Trí Môn nói, “Sò ngậm trăng sáng,” và “con thỏ mang thai,” đều mượn vào ý của trung thu. Tuy là thế, song ý của bậc cổ nhân này lại chẳng nằm nơi sò và thỏ. Trí Môn là bậc tôn túc trong chúng hội của Vân Môn, một câu của thầy ta đều phải gồm đủ cả ba câu, tức là câu bao gồm trời đất, câu cắt đứt các dòng (tư tưởng), và câu đuổi theo sóng nước. Hơn nữa lại khế hợp mà chẳng hề có an bài trước. Cho nên thầy ta mới đi vào chỗ nguy hiểm mà trả lời câu hỏi của ông tăng kia, để lộ một chút cái sắc bén của mình, Trí Môn quả thật là kỳ đặc. Tuy là thế song bậc cổ nhân này chẳng hề chơi với bóng sáng, chỉ chỉ ra một con đường để giúp các ông thấy mà thôi.

Ông tăng kia hỏi, “Bát nhã thể là gì?” Trí Môn nói, “Sò ngậm trăng sáng.” Hàn Giang có loại sò, trong sò có ngọc sáng, vào trung thu lúc mặt trăng hiện, con sò bèn nổi lên mặt nước há miệng ra để ngậm trăng sáng; do đó mà sò sinh ra ngọc. Ngọc Hợp Phố chính là loại này. Nếu như trung thu mà có trăng thì có nhiều ngọc, nếu không có trăng thì có ít ngọc.

Ông tăng cũng hỏi, “Bát nhã dụng là gì?” Trí Môn nói, “ Con thỏ mang thai.” Ý nghĩa của câu đáp này cũng chẳng khác ý nghĩa của câu đáp trên. Thỏ thuộc âm (Mặt trăng cũng thuộc âm), vào trung thu lúc trăng hiện, thỏ há miệng để nuốt ánh trăng, do đó mà mang thai, rồi sinh con từ miệng. Ở đây cũng vậy, có trăng thì sinh nhiều con, không trăng thì sinh ít con.

Câu trả lời của bậc cổ nhân này chẳng có gì là lắm chuyện cả, thầy ta chỉ mượn ý của câu chuyện để trả lời ánh sáng của Bát nhã mà thôi. Tuy là thế, song ý của Trí Môn không ở nơi ngôn ngữ. Chỉ vì người đời sau tụ đi vướng mắc vào ngôn ngữ đó thôi. Há không nghe Bàn Sơn nói, “Tâm nguyệt đơn tròn, sáng suốt vạn vật. Sáng không chiếu cảnh, cảnh cũng không có. Sáng cảnh đều quên, là vật gì vậy?” Người bây giờ chỉ trợn tròn mắt ra rồi gọi đó là ánh sáng, chỉ sinh kiến giải từ thiên chấp của họ mà thôi, đúng là đóng đinh đóng chốt vào hư không.

Cổ nhân nói, “Từ nơi lục căn của các ông suốt ngày đêm chiếu ra một ánh sáng lớn rọi khắp sơn hà đại địa. Không những chỉ nhãn căn phóng ra ánh sáng mà thôi mà tỉ thiệt thân ý cũng đều phóng quang.” Đến đây rồi các ông phải rửa sạch sáu căn của mình để cho không còn một sự việc gì nữa, tự tại thánh thoát, các ông mới có thể hiểu cốt ý của công án này được. Tuyết Đậu cũng tụng ra như thế.

TỤNG

Một phiến hư không trên tình trần,

Người trời từ đó thấy Không Sinh [3]

Sò ngậm thỏ huyền ý thâm sâu,

Tung gậy chiến tranh với Thiền gia.

BÌNH: "Một phiến hư không trên tình trần.” Chỉ với một câu này mà Tuyết Đậu tụng được rất là hay, tự nhiên là thấy được ý của cổ nhân. Sáu căn trong trẻo là cái gì vậy? Chỉ là một phiến hư minh ngưng tịch này mà thôi. Các ông không cần phải lên trời để tìm nó, cũng không cần cầu nó ở nơi người khác. Thường quang lúc nào cũng hiển hiện trước mắt chúng ta, ở ngay chỗ này đây nó cao vời vợi như thể vách đá vạn trượng, siêu việt trên ngôn ngữ và cảm thức.

Pháp Nhãn viết trong bài Tụng Viên Thành Thực tính rằng, “Lý cực quên tình trần, làm sao lập luận dụng? Khắp nơi trăng sương đêm, rơi trên suối trước mặt. Quả chín nặng bầy khỉ, núi xa giống lạc đường. Ngẩng đầu còng trăng tàn, hướng tây của nhà ta.” Cho nên mới có lời nói rằng, “Tâm là căn pháp là trần, cả hai giống như vết trên gương. Khi hết cáu bụi ánh sáng hiện, tâm pháp đều quên tính tức chân.” Lại cũng có lời nói rằng, “Ở mãi trong ba gian nhà cỏ, một đạo thần quang vạn cảnh nhàn. Đừng lấy thị phi phán đoán tôi, phù sinh xuyên tạc chẳng tương quan.” Mấy bài tụng này cốt ý chỉ để cho các ông thấy được ý nghĩa của câu “ một phiến hư không trên tình trần” mà thôi.

“Người trời từ đó thấy Không Sinh.” Há không biết cái tích rằng Tu Bồ Đề đang ngồi tĩnh tọa trên vách đá, chư thiên rải hoa tán thán. Tu Bồ Đề nói, “Chẳng hay người rải hoa trên không rồi tán than. Tu Bồ Đề nói, “Chẳng hay người rải hoa trên không rồi tán thán là ai đó?” Thiên Tử nói, “Tôi là Phạm Thiên.” Tu Bồ Đề hỏi, “Tại sao ngài lại tán thán ?” Phạm Thiên nói, “Tôi kính trọng tôn giả khéo giảng Bát Nhã Ba La Mật Đa.” Tu Bồ Đề nói, “Tôi chưa từng nói một chữ về Bát nhã, tại sao ngài lại tán thán?” Phạm Thiên nói, “Tôn giả không nói tôi cũng không nghe, đó là Bát Nhã chân thực.” Rồi tlại iếp tục làm đất rung chuyển và rải hoa xuống như mưa. Nhìn xem Tu Bồ Đề mới khéo giảng Bát nhã mà chẳng cần nói gì đến thể với dụng. Nếu như các ông thấy được chỗ này ắt các ông hiểu được câu nói của Trí Môn rằng, “Sò ngậm trăng sáng,” và “con thỏ mang thai.”

Tuy rằng ý của cổ nhân không ở nơi ngôn cú, song trong câu trả lời của họ mới có ý nghĩa thâm sâu làm sao, khiến cho Tuyết Đậu phải nói rằng, “Sò ngậm thỏ huyền ý thâm sâu.” Đến chỗ này “tung gậy chiến tranh với Thiền gia”. Các người học Thiền trong thiên hạ vẫn cứ tránh cái ầm ĩ, song chưa có một người nào hiểu được dù là trong mộng. Nếu muốn cùng tham Thiền với Trí MônTuyết Đậu cần phải ghé mắt nhìn mới được.
 
 

[1] “Varam khalu puna kacyàpa sumerumàtra pudgaladrstiràsrita na tvevádhimànikasya cùnyatàdrstimàlinà.” Trích từ chương 64 trong Kasàpaparivarta, ấn hành bởi Baron A.von Staèl-Holstein, tái bản 1977.

[2] Nhị thừaThanh Văn thừa (Sravakayàna) và Duyên Giác Thừa (Pratyekabuddhayàna).

[3] “Không Sinh” là chữ Trung Hoa dùng để dịch chữ “Subhuti” ( Tu Bồ Đề)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24030)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21755)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23328)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27518)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26583)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29342)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 20213)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 20943)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 29852)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 22151)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 24415)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29304)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 32179)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21094)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 21619)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28110)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 29224)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20637)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28316)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23667)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33217)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31871)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39662)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 19404)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26427)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24847)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21761)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 29160)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22583)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20481)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23559)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21252)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35367)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24566)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31368)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26249)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 31266)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20300)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22991)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30103)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21620)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20303)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 20803)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 28826)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34772)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 22583)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21402)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 19371)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 29546)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35205)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28851)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 37943)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21353)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 27057)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27250)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24092)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20874)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34342)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22513)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25151)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant