Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật phápvô giá

11 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 21871)
Phật pháp là vô giá

PHẬT PHÁPVÔ GIÁ

Chủ nhật ngày 16 tháng 1 năm 2011 News in 2011
Nguồn: Dharma Not For Sale

blankChúng tôi đang sống những ngày đầy ân phúc gia trì nhờ sự viếng thăm của bác tôi. Chính cha tôi cũng vô cùng hoan hỷ trước sự kiện này nên chỉ cần được nhìn thấy hai ngài ở bên nhau hoặc được ở cùng với hai ngài là tôi đã cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Mỗi khoảnh khắc trong một ngày đều tràn đầy ân đức gia trì, đây thực sự có thể gọi là “mưa gia trì”. Tất cả chúng tôi đều có rất nhiều cơ hội để đón nhận Wang (quán đỉnh) từ bác tôi. Tôi không muốn mọi người xôn xao về sự hiện diện của ngài. Chắc hẳn các bạn đều đã biết, tôi vẫn luôn cho rằng Giáo Pháp thực sự quá quý báu và không thể đem “mua bán” theo cách thức thế gian. Trừ khi bạn có động cơ tuyệt đối thanh tịnh, còn nếu không thậm chí tôi còn nghĩ Giáo Pháp không nên được tiếp thị giống như một thứ hàng hóa thương mại, còn bậc thầy thì cư xử giống như một người bán hàng đang bán “mặt hàng” là Giáo Pháp ở những nơi đông người và náo nhiệt. Theo cách đó đôi khi Giáo Pháp không còn được trân trọng mà bị coi như một thứ hàng hóa thông thường, chẳng còn có giá trị ở bất cứ nơi nào hay chẳng còn được coi trọng bởi bất cứ ai.

Lần này, chính vì suy nghĩ mang tính “xuất thế gian” như vậy mà chúng tôi đã cùng nhau hội tụ tại một nơi vô cùng linh thiêngTự viện Núi Druk Amitabha nhưng không hề thông báo rộng rãi để nhiều người biết. Thêm vào đó, thậm chí tôi còn không muốn bận tâm in một tờ thông bạch nào, hay gọi một cuộc điện thoại nào cho ai để thông báo. Thế nhưng thật lạ, mọi người bắt đầu kéo đến. Giờ đây chúng tôi bắt đầu phải lo lắng về vấn đề sắp xếp chỗ nghỉ, nấu ăn và thậm chí phải lo cả chỗ đậu xe. Tất nhiên, bên cạnh đó, tôi cũng rất hoan hỷ vì có rất người đã thu xếp để tới tham dự cùng với chúng tôi, vì điều này sẽ vô cùng lợi lạc.

Điều tuyệt vời nhất trong lần vân tập này là mặc dù mọi thứ vô cùng đơn giản song vẫn tràn đầy sự gia trì. Vì vậy nên cho dù có nghe tới hàng ngàn lần mọi người nói với nhau rằng “Tôi không biết được rằng ở đây lại tổ chức đại đàn quán đỉnh”, trên bình diện tương đối, tôi cảm thấy tự hào, bởi lẽ đây là một dấu hiệu cho thấy tôi đã không bị tác động bởi các pháp thế gian trần lụy.

Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó. Tất nhiên, để trở nên thành đạt trên thế gian này, chúng ta cần có của cải, danh vọngsức khỏe, chúng ta cần rất nhiều thứ! Nhưng tôi nghĩ tất cả những thứ này cần được làm ra bởi những phương tiện khác, thay vì đem Phật Pháp ra kinh doanh. Một khi bạn đã bắt đầu mang Phật Pháp ra kinh doanh nhằm thỏa mãn những tiện nghi cá nhân cho mình thì đó đã là sự thực hành các pháp thế gian, mà theo tôi thiết nghĩ hoặc có thể nói rằng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sẽ vô cùng phản bác cách làm đó. Động cơ chính của Đức Phật Thích Ca khi thuyết giảng giáo pháp ở Triyana chính là để tiêu trừ những động cơ và thái độ như vậy. Thế nhưng ngày nay đa phần trong chúng ta lại thường nuôi dưỡng những cách hành xử như vậy mỗi khi chúng ta thực hành Phật Pháp.

Cho dù cuộc sống của bạn có rực rỡ sắc màu đến bao nhiêu, cho dù bạn có giàu có hay nổi tiếng đến thế nào, nhưng chừng nào bạn vẫn còn ở trong vũng bùn đó thì hoàn cảnh của bạn thực sự đang rất đáng lo ngại. Đôi khi, nhất là những lúc như lúc này, khi tôi quan sát nhân duyên hy hữu này khi bác tôi là người chủ trì các khóa lễ, tôi hoan hỷ vô cùng vì thấy chính mình cùng những hành giả trên Núi Druk Amitabha, chúng tôi đã cùng nhau sống vượt lên hoàn cảnh mà không cần phải đem Giáo Pháp ra kinh doanh. Bác tôi thực sự là một bậc thượng sư vĩ đại, ngài trao truyền cho chúng tôi những giáo pháp vô cùng quý báu với cả tấm lòng nhiệt tình, còn đại chúng cũng rất tuyệt vời, những thiếu niên nhỏ tuổi với tâm chí thành tha thiết, những sư ni đang tu tập tại tự viên Druk Amitabha của chúng tôi, cùng với rất nhiều chư tăng hiện đang thực hành dưới sự chỉ dẫn nghiêm khắc của tôi tại tự viện nơi đây. Tôi cho rằng tất cả chúng hội, bao gồm cả thượng sư và các đệ tử, đều có tinh thần xuất thế, theo nghĩa ai nấy đều mang động cơ thanh tịnhcư xử rất mực thước, bởi lẽ một cách rất tự nhiên, họ chẳng có nhiều những thái độ trần lụy thiếu tích cực, nhất là trong những sự kiện thiêng liêng như lần này. Nếu như việc thực hành Giáo Pháp không phải vì mục đích giải thoát mà để thành danh trong xã hội hay vì mục đích chính trị, thì đâu còn được gọi là Giáo Pháp nữa. Tôi tin rằng nếu như vậy, thà chúng ta cứ tập trung vào những hoạt động thế gian khác để thỏa mãn ý thích cá nhân và đừng làm liên lụy đến Giáo Pháp thì lại hơn. Hãy để cho Giáo Pháp được giữ nguyên chức năng là vị thuốc đối trị mọi khổ đau trong luân hồi, đừng biến Giáo Pháp trở thành độc dược. Nếu Giáo Pháp bị đem ra kinh doanh vì lợi ích cá nhân thì rồi cả dòng truyền thừa cũng sẽ bị mang ra mua bán như vậy, và ngay cả tâm hồn cũng như tinh thần của bạn rồi cũng sẽ bị đem bán.

Tôi không ngụ ý rằng con người không bao giờ được mong cầu tiếng tăm, thực phẩm hay của cải. Điều tôi muốn nói ở đây là con người không nên đem Giáo Pháp ra bán để thỏa mãn những tham muốn trần tục của riêng mình. Đây mới là điều duy nhất mà tôi cố gắng muốn mọi người hiểu được. Tất cả các bạn nên hiểu tôi đang muốn hướng tới điều gì. Nói ra điều này một cách rõ ràng minh bạch ở đây cũng là cách để giúp tôi tự kéo chính mình ra khỏi vũng lầy. Trong khi viết nên những dòng chữ này, tôi có hai tâm nguyện lớn, thứ nhất là để tự giúp mình vượt lên khỏi sự lộn xộn này, và thứ hai là mong rằng điều này sẽ giúp cho nhiều người hiểu ra rằng Phật Pháp thực sự có ý nghĩa gì, Phật Pháp cần phải được thực hành như thế nào, và động cơ thuyết pháp tại vườn Kỳ Đà của Đức Phật Thích Ca là gì.

Trong những ngày này, bác tôi và cũng là bậc thầy truyền quán đỉnh luôn thúc giục, sách tấn chúng tôi cần phải cầu nguyện cho sự bình an của thế giới và cho mọi chúng sinh trên thế gian này. Tôi không nghĩ là ngài biết nhiều về tất cả những thảm họa mới xảy ra gần đây, vì ngài chẳng biết gì về internet. Ngài thuộc lớp người thế hệ trước không sử dụng những công nghệ mới. Thế nhưng nhờ vào sự toàn tri nên ngài biết rõ sự cần thiết của những lời cầu nguyện này. Mỗi buổi sáng, buổi chiều và buổi tối, ngài đều sách tấn chúng tôi phải cầu nguyệnhồi hướng. Tôi vô cùng thán phục sự toàn tri của ngài. Con người chúng ta sống trong thế giới hiện đại có thể biết được nhiều điều nhờ vào công nghệ tiên tiến. Thế nhưng mặc dù không được tiếp xúc với thông tin, ngài vẫn rất quan tâm lo lắng cho những gì đang xảy ra. Nhờ vào sự động viên sách tấn của ngài, chúng tôi đang thực hành rất nhiều khóa lễ nguyện cầu an bình cho thế giới.

Tôi vẫn luôn nói rằng bất kể chúng ta cầu nguyện gì và như thế nào đều cần phải được nâng đỡ bằng thiện hạnh. Nếu không, những lời cầu nguyện sẽ không bao giờ ứng nghiệm! Thay vì thế, rồi sẽ có vô số thảm họa xảy đến ở khắp nơi, như bạn đã thấy nếu như theo dõi thời sự. Chúng ta rất khôn khéo nên đổ cho rằng đó là những thảm họa thiên nhiên, nhưng tất cả những thảm họa đó đều bắt nguồn từ chúng ta. Chính con người chúng ta đã tạo ra nguyên nhân gây nên những thảm họa đó, Chính vì vậychúng ta cần tự đào tạo lẫn nhau thay vì cứ đổ tại thiên nhiên. Thiên nhiên vốn rất tươi đẹp và không phải tự nhiên có những phản ứng tiêu cực như vậy, chính chúng ta mới là nguyên nhân tạo nên thiên tai. Chúng ta cứ bám vào cái từ thiên tai và cho rằng những thảm họa này là do tự nhiên, điều này thật đáng buồn. Tôi vẫn luôn cảm thấy hơi buồn cười khi nghĩ về sự cố chấp và vô trách nhiệm của loài người chúng ta.

Với tất cả những ai đọc được thông điệp này, tôi xin kiến nghị mỗi người hãy thực hành những thiện hạnh YÊU THƯƠNG và làm những điều THIỆN LÀNH với ĐỘNG CƠ CHÂN CHÍNH THANH TỊNH.

Source: thuvienhoasen


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(Xem: 164)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 201)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 225)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 289)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 205)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 255)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 339)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 303)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 304)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 383)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 614)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 475)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 484)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 579)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 753)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 837)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 858)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 844)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 737)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 711)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 715)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 814)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 833)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 941)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 717)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 616)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 714)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 825)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 712)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 708)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 824)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 851)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 827)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 864)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 902)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 887)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1085)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 953)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1672)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1066)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1211)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 956)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1214)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1116)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1123)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1280)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1559)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2034)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1096)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1354)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1097)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 947)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1065)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1100)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1535)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1287)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1293)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1025)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant