Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hình tượng "Đa Văn Thiên Vương" trong văn hóa Phật giáo Trung Quốc

14 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 13533)
Hình tượng "Đa Văn Thiên Vương" trong văn hóa Phật giáo Trung Quốc
Hình tượng "Đa Văn Thiên Vương"
trong văn hóa Phật giáo Trung Quốc 
Nguyên Thái Hòa

Đa Văn Thiên Vương là một vị thần trong thần thoại của Ấn Độ cổ. Theo truyền thuyết, ngài là thần Dạ xoa có tên Kuvera hay Kubera. Ngoài ra, ngài cũng được gọi là Vaiśravana hoặc Vessavana, phiên âm Hán Việt là Tỳ Sa Môn. Còn xung quanh việc xuất thân của ngài, cho đến nay vẫn còn nhiều truyền thuyết khác nhau. Nhưng có một truyền thuyết phổ biến nhất kể lại rằng: Kubera (phiên âm Hán Việt: Câu Tỳ La) được vị thần sáng tạo của Ấn ĐộĐại Phạm Thiên sai bò mẹ mang thai và sinh ra. Thần vốn hiền lành, không thích tranh đấu nên bị người em khác mẹ là La Sát Vương đuổi đến Lanka (nay là Srilanka), về sau, thần di cư đến Cương Nhân Ba Tề (núi thần của Phật giáo tại A Lý - Tây Tạng). Mặc dù bị đuổi khỏi gia đình, nhưng do có căn tu cộng thêm hàng ngàn năm khổ luyện, nên Kubera được Đại Phạm Thiên ban cho sự trường sinh bất tử, trong coi kho báu của thế gian và cũng là vị thần bảo hộ của phương Bắc. Tại Ấn Độ, vai trò của Kubera quan trọng không kém gì thần đầu voi Ganesa(1).

Sau khi được du nhập vào Phật giáo Ấn Độ, Tỳ Sa Môn trở thành một vị trấn giữ phương Bắc của cõi trời thứ nhất trong Dục giới, chuyên hàng phục chúng ma, bảo hộ Phật pháp cùng chúng sanh. Bởi theo quan niệm thế giới quan của Phật giáo, thế giới chia làm ba cõi: Dục giới, Sắc giớiVô sắc giới, gọi chung là Tam giới. Theo đó, tất cả chúng sanhthế gian đều chịu kiếp luân hồi trong Tam giới này, và chỉ khi nào tu hành đạt đến cảnh giới Niết bàn thành Phật thì mới thoát ra khỏi, không còn chịu kiếp nạn luân hồi. Trong Tam giới, Dục giới là giới thấp nhất, có: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, a-tu-la, loài người cùng một bộ phận thiên thần. Trong Dục giới lại có 6 cõi trời, và cõi thứ nhất chính là nơi ngự trị của Tỳ Sa Môn. Và cũng như các vị Hộ pháp khác, Tỳ Sa Môn được miêu tả mình mặc giáp trụ, thân màu lục, mặt vàng, tay cầm lọng báu che chở cho chúng sanh. Trong “Đại tập kinh” có ghi, đó là trách nhiệm to lớn của Ngài mà chư Phật đã ủy thác ở cả hiện tạivị lai(2).

Khi Phật giáo được du nhập vào Trung Quốc, người Trung Quốc xưng tụng Ngài là Duō Wén Tiān Wáng (多闻天王), phiên âm Hán Việt là Đa Văn Thiên Vương, với ý nghĩa là “vị thiên vương nghe cả thế giới”. Từ đó, theo từng vùng chịu ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa Trung Quốc mà tên gọi của vị thần này được phiên âm khác nhau. Tại Nhật Bản, vị thần này được gọi là Tamon-ten hoặc Bishamon-ten, tại Hàn Quốc là Damun-cheonwang(3) và tại Việt Nam cũng gọi là Đa Văn Thiên Vương.

Đa Văn Thiên Vương cùng với các vị thần Trì Quốc Thiên Vương, Tăng Trưởng Thiên Vương, Quảng Mục Thiên Vương hợp thành Tứ Đại Thiên Vương và đều là thành viên của 20 chư thiên. Theo truyền thuyết Phật giáo, các vị này là những Thiên vương dẫn đầu trong 8 vị thần tướng, trấn giữ 4 phương của núi Tu Di, nên cũng gọi là “Tứ Thiên Vương”, “Tứ Đại Kim Cang”, “Hộ Thế Thiên”... Trách nhiệm của các vị là hộ trì Phật pháp, bảo vệ chúng sanh, đem lại cho chúng sanh sự an cư lạc nghiệp, tài bảo đầy đủ, phúc đức tăng trưởng, tiến vào Chánh pháp. Do vậy, từ xưa đến nay, Tứ Đại Thiên Vương có mối quan hệ rất gần gũi và mật thiết với chúng sanh, được tôn thờ ở nhiều nơi, trong các chùa, miếu trên khắp Trung Quốc. Mà hình tượng thường thấy nhất là 4 vị to lớn, uy nghi, được đặt ở Thiên Vương điện, gần cổng chính khi vào chùa.

Truyền thuyết dân gian Trung Quốc đã nhắc đến các vị này từ thế kỷ thứ IV, nhưng phải đến thời Đường (618 - 907), hình tượng của Tứ Đại Thiên Vương mới lần đầu tiên xuất hiện qua các thư tịch cổ cùng những bức tượng, phù điêu bằng gỗ, đồng hay trên vách đá... còn lưu lại đến ngày nay, với: Đông phương Trì Quốc Thiên Vương, thân màu trắng, mình mặc giáp trụ, tay trái cầm đao, tay phải cầm trường mâu hoặc cầm cung tên; Nam phương Tăng Trưởng Thiên Vương, thân màu xanh, mình mặc giáp trụ, tay cầm bảo kiếm; Tây phương Quảng Mục Thiên Vương, thân màu đỏ, mình mặc giáp trụ, tay trái cầm trường mâu, tay phải cầm xích thừng, cũng có lúc một tay cầm bảo kiếm; Bắc phương Đa Văn Thiên Vương, thân màu lục, mình mặc giáp trụ, tay trái cầm gậy tích trượng hoặc trường mâu, tay phải cầm bảo tháp. Dưới chân của Tứ Thiên Vương đều giẫm lên một con quỷ biểu thị cho uy lực của Chánh pháp(4). Sau thời Nguyên (1271 - 1368), Phật giáo ở nhiều địa phương của người Hán từng bước được Hán hóa, theo đó mà hình tượng của Tứ Đại Thiên Vương cũng có một vài thay đổi về phong cách tạo hình. Cụ thể: Đông phương Trì Quốc Thiên Vương tay cầm đàn tỳ bà; Nam phương Tăng Trưởng Thiên Vương tay cầm thanh quang bảo kiếm; Tây phương Quảng Mục Thiên Vương tay cầm con rắn; Bắc phương Đa Văn Thiên Vương tay cầm lọng báu, phân chức thành Phong, Điều, Vũ, Thuận.

Trong Tứ Đại Thiên Vương, thì Bắc phương Đa Văn Thiên Vương là vị thần nổi danh nhất. Ngài vừa là hộ thần của phương Bắc Ấn Độ cổ, lại là vị thần tài phú, dùng võ để giúp người, được đại chúng kính ngưỡng, tôn thờ và Ngài cũng là vị thần được tôn thờ sớm nhất trong Tứ Đại Thiên VươngTrung Quốc. Tại các hang đá ở Vân Cương (tỉnh Sơn Tây, đã được UNESCO công nhậnDi sản Văn hóa thế giới vào năm 2001), Long Môn (tỉnh Hà Nam) đã sớm có những bức tượng về Ngài. Sở dĩ như vậy, là theo truyền thuyết dân gian, vào thời nhà Đường, niên hiệu Thiên Bảo nguyên niên (742), có giặc Tây Vực sang xâm chiếm thành Tây An. Lúc này, Đa Văn Thiên Vương đã hiện thân tại lầu thành Bắc Môn, dẫn trăm thần binh nghênh chiến với địch, phái “sóc vàng” cắn đứt dây cung của quân địch, đại phá vòng vây. Để cảm phục ơn đức của Ngài, Đường Huyền Tông lập tức truyền lệnh cho các châu, phủ, thành ở vùng giáp ranh Tây bắc đều tạc tượng Thiên Vương, sau đó lại lệnh cho các ngôi chùa xây dựng “biệt viện” mà đặc biệt thờ phụng Ngài(5). Và cho đến ngày nay, ở các địa phương này của Trung Quốc, Đa Văn Thiên Vương còn được xem là một vị thần chiến đấu và tín ngưỡng tôn thờ Ngài cực thịnh.

Đa Văn Thiên Vương là vị thần trấn giữ phương Bắc, Ngài đồng thời bảo hộ Phật pháp, thường xuyên nghe Như Lai thuyết pháp, nên gọi là Đa Văn Thiên Vương, lại là vị thần tài bố thí, vượt biển hành đạo, ban bố tài bảo kim lượng cho chúng sanh. Với công đức vô lượng của Ngài như vậy, nên trong dân gian thờ phụng rất phổ biến, gọi Ngài là “Đa Bảo Thiên Vương” hay “Tài Bảo Thiên Vương”. Và tín ngưỡng dân gian cũng tin rằng, Ngài chính là hóa thân của một vị Đại Bồ tát.

Trong Phật giáo Mật tông, Tài Bảo Thiên Vương là một trong bảy Phúc thần, hình tượng thường thấy của Ngài là cưỡi trên con sư tử, đầu đội Bảo quang, toàn thân màu vàng kim, tay phải cầm lọng, tay trái nắm con “sóc vàng” miệng nhả hạt châu bảo, tượng trưng cho tài phú liên tục không ngừng. Ngài là vị thần nắm giữ việc chuyển hóa phúc báocông đức, tài phú của thế gian, bảo hộ Phật pháp, diệt trừ ma chướng, làm thanh tịnh cảnh giới Ta bà.

Đa Văn Thiên Vương hay Tài Bảo Thiên Vương, là một trong những vị thần của Đế Thích, có năng lực bảo hộ thế gian, nên cũng được gọi là Hộ Thế Giả. Danh hiệu của Ngài: Bắc phương Tỳ Sa Môn Đa Văn Thiên Vương, là biểu hiện cho sự phúc đức công hạnh của Ngài và là sự hóa thân của Nam phương Bảo Sanh Phật trong Ngũ phương Phật. Bên cạnh Ngài còn có 8 vị tài thần thuộc hạ, gọi là “Bát tuấn Tài thần” hay “Bát lộ Tài thần”, nắm giữ ở 8 hướng, cùng giúp cứu độ chúng sanh, làm sung túc, đủ đầy nguyện cầu của tín chúng.

Theo giáo lý Phật giáo, muốn nhận được sự gia trì của Tài Bảo Thiên Vương và Bát Lộ Tài Thần, thì chúng sanh cần giữ được “Tam quy, Ngũ giới”, như chuyên tâm niệm chú, có tấm lòng từ bi hỷ xả, và thường phát hạnh nguyện làm việc thiện mang lại lợi lạc cho tất cả chúng sanh, lúc đó sự nghiệp sẽ thuận lợi, mọi kế hoạch lớn nhỏ đều phát triển, hanh thông, cầu tài được tài, tương ứng nhanh chóng.

Ngày nay, trong tín ngưỡng dân gian Trung Quốc, mà đặc biệttín ngưỡng thờ thần tài, bên cạnh các vị thần như: Triệu Công Minh, Quan Vũ, Bỉ Can, Phạm Lãi..., thì có không ít các gia đình Phật tử hay trong các cửa hàng buôn bán đều thờ phụng Đa Văn Thiên Vương làm thần tài, với mong muốn được Ngài bảo vệ, chở che cũng như mua may bán đắt - như ở thành phố Côn Minh, tỉnh Vân Nam. Còn tại núi Phi Lai, thành phố Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, có nhiều gian thờ Đa Văn Thiên Vương được tạc trên vách núi, có cặp liễn đối nói về nguyện vọng của thiện nam tín nữ trong việc tôn thờ Ngài rằng:

秉教统领诸天大千世界

以宝普施众地不二法门

Bỉnh giáo thống lĩnh chư thiên đại thiên thế giới

Dĩ bảo phổ thí chúng địa bất nhị pháp môn

Tạm dịch:

Nắm chắc giáo lý của Phật, quản lãnh chư thiên khắp các cõi trời trong muôn ngàn thế giới.

Lấy Pháp bảo của Phật, ban khắp thế gian hướng chúng sanh đến con đường duy nhấtgiải thoát

 

(1) 诺布旺典: (唐卡中的财神), 152页, 陕西师范大学出版社, 2009 年.

(2) 诺布旺典: (藏密财神法), 224页, 紫禁城出版社, 2008 年.

(3) http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90a_V% C4%83n_thi%C3%AAn_v%C6%B0%C6%A1ng

(4) 李跃忠: (财神),107-108 页, 中国社会出版社, 2009 年.

(5) 李跃忠: (财神), 108 页, 中国社会出版社, 2009 年.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. 仓圣: (财神图说), 哈尔滨: 黑龙江美术出版社, 2005年.

2. 马书田, 马书侠: (全像福寿财神), 江西美术出版社, 2008 年.

3. 诺布旺典: (藏密财神法), 紫禁城出版社, 2008 年.

4. 李跃忠: (财神), 中国社会出版社, 2009 年.

5. 诺布旺典: (唐卡中的财神), 陕西师范大学出版社, 2009 年.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11086)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14376)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
(Xem: 11547)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12719)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12331)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11093)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10971)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13453)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11887)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13761)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11990)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11249)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12307)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12468)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20677)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12493)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12524)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11769)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11658)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22507)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13649)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29819)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11609)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16828)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12069)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16923)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12161)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 18023)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12723)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13242)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14831)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22747)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10651)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14127)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13929)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13786)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13940)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13997)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14909)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13939)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18491)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22898)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15471)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17397)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22492)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14334)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12696)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11247)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17865)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13285)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13197)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18887)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17256)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13597)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 13005)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14790)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14770)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15963)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13599)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27561)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant