Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

07. Phải coi như giới tăng sĩ Miến Điện đã thành công

24 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 12683)
07. Phải coi như giới tăng sĩ Miến Điện đã thành công
PHẢI COI NHƯ GIỚI TĂNG SỸ MIẾN ĐIỆN
ĐÃ THÀNH CÔNG 
Time Magazine trực tuyến, số ra ngày thứ sáu, 12 tháng 10 năm 2007
TIME Friday, Oct. 12, 2007 By DAVID VAN BIEMA/NEW YORK CITY
http://www.time.com/time/world/article/0,8599,1670911,00.html 

Phù Sa chuyển ngữ 

Trong chiếc áo tu sỹ màu nâu, Thiền sư ngồi xếp bằng trong thế hoa sen trên chiếc tọa cụ cũng màu nâu tại một khách sạn ở khu Manhattan, trung tâm Nữu Ước. Bên cạnh Thầy là bình trà, cặp kính và một cuốn sách nhan đề “Mindfulness in the Marketplace” (tạm dịch là Chánh niệm ở giữa chợ - do Thầy viết). Thiền sư Nhất Hạnh đã dành cho Tuần báo Time một khoảng thời gian rất ngắn giữa chuyến đi hoằng pháp ở Hoa Kỳ để nói về vấn đề các tu sỹ ở Miến Điện mà hiện nay đang rất được quan tâm. (xem Video- David Van Biema Interviews Thich Nhat Hanh)

Dài theo dòng lịch sử, ông thầy tu mang tên Nhất Hạnh đã thực sự là người phát ngôn cho đạo Phật trên toàn thế giới. (“Thích” là họ của tất cả quí thầy và quí sư cô Việt Nam mang khi vừa được xuất gia). Lần đầu tiên Thầy được thế giới biết đến là vào đầu thập niên 60, khi Thầy lãnh đạo giới tu sĩ Phật giáo trong nước chống lại sự theo đuổi chiến tranh tại Việt Nam của cả hai phía. Cái giá của sự lựa chọn này là sự hy sinh của một số đồng bào của Thầy và bản án biệt xứ của chính Thầy. Hoa kỳ là nơi mà lời kêu gọi của Thầy gây được nhiều ảnh hưởng nhất. Sự chống đối chiến tranh Việt Nam nơi đây của Thầy đã thuyết phục được Mục Sư Tiến Sĩ Martin Luther King Jr. đích thân bày tỏ lập trường chống đối của ông ta về cuộc chiến tại Việt Nam. Và sau đó Mục Sư King đã đề cử Thầy cho giải Nobel Hòa Bình năm 1967. Nhờ biết nhiều ngôn ngữ, Thầy tiếp tục viết lách và thuyết giảng khắp nơi bằng nhiều thứ tiếng, khai sinh cho phong trào “đạo Bụt dấn thân". Thầy tìm ra được những ngôn từ làm thành những mẫu số chung cho cái thấy về đạo Bụt này của Thầy và những niềm tin khác trên thế giới. Thầy và hàng chục cuốn sách của Thầy đã dành được nhiều sự mến mộ của quần chúng Hoa Kỳ, Uy tín của Thầy chỉ đứng thứ hai, sau đức Đạt Lai Lạt Ma. Thầy đã nhiều lần bày tỏ thái độ chống đối của Thầy với nhiều cuộc xung đột trên thế giới trong đó có cả cuộc can thiệp của Hoa Kỳ vào Iraq. Thầy hiện đang sống với rất nhiều đệ tử xuất giatại gia của Thầy tại một tu viện do chính mình thành lập ở miền Nam nước Pháp.

Đạo Phật có ba tông phái chính: Nam Tông (Thượng Tọa Bộ), theo sử học là tông phái đơn giản nhất, đang được thực hành phổ biến tại Nam Á và cũng là tín ngưỡng của chư Tăng Miến Điện; tông thứ hai, Bắc Tông, cũng là đạo Bụt Đại Thừatruyền thống Thiền của chính Thầy là một nhánh trong đó; và tông Kim Cang, tông phái của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Tuy nhiên trong cuộc mạn đàm, Thầy nhấn mạnh tới sự hợp nhất và đoàn kết của cả ba truyền thống trên trong sự ủng hộ cuộc đấu tranh của người dân Miến Điện. Thầy nói “Quí thầy ở Miến Điện cũng thực tập Niệm Định Tuệ như chúng tôi”.

Thầy nói phải coi như chư tăng Miến Điện đã "hoàn thành sứ mệnh của họ rồi. Họ đã thành công bởi vì cho dù đang bị tù đày hay mạng vong, quí thầy đã cống hiến phần lãnh đạo tâm linh cho toàn dân. Và bây giờ đây là đến phiên toàn dân Miến Điện và thế giới phải tiếp tục công tác ấy." Được hỏi về vấn đề tử đạo, Thầy trả lời: "Chúng ta nuôi dưỡng sự ý thức lớn rằng hiện đang có những thầy tu bị hành hạtiếp tục chịu khổ để ủng hộ cho nền dân chủ của người dân Miến Điện"

Có lẽ hành động gây chú ý nhiều nhất của chư tăng Miến Điện trước khi họ bị bỏ tùcử chỉ biểu tượng lật úp những chiếc bình bát. Trong văn hóa Tây phương việc cúng dường thường chỉ giới hạn trong nhà thờ Ky Tô giáo hay giáo đường Do Thái, vậy nên sự kiện này (lật úp bình bát - nghĩa là từ chối nhận phẩm vật cúng dường) có thể coi như lạ lùng. Tuy nhiên thiền sư Nhất Hạnh đã chỉ rõ đó là một lời tuyên bố hùng hồn gửi đến các vị lãnh đạo chính phủ về thái độ chống đối của họ. "Trong văn hóa Phật giáo", Thiền sư giải thích, "cúng dường phẩm vật cho chư tăng tượng trưng cho sự kiện được làm một việc thiện, và nếu mình không có cơ hội yểm trở sự tu tập tâm linh (như cúng dường chư tăng) thì mình bị coi như sống trong tăm tối". Các vị tu sĩ đã bày tỏ sự lên án bằng hành động mạnh mẽ nhất: không cho chính quyền cơ hội làm điều thiện. Vai trò quan trọng của chư tăng Miến Điện còn được tăng thêm qua những báo cáo rằng có hàng trăm binh sĩ Miến đã bị chính quyền bỏ tù vì từ chối cầm súng bắn quý thầy.

Ở Hoa Kỳ, mối liên hệ giữa Phật giáo và công việc xã hội chưa được mọi người hiểu rõ. Nhiều người Mỹ nhìn Phật giáo như một triết lý đã coi thế giới này chỉ là một cõi tạm và không quan trọng; ở xứ này, hình ảnhPhật giáo được phổ biến nhiều nhất là pháp môn cốt lõi của truyền thống Nam Tông với sự tập trung tâm ý qua sự quán tưởng về Bi, hay là Từ. Thiền sư Nhất Hạnh nói: "Thiền định là để có tuệ giác, để tăng trưởng sự hiểu biếtlòng từ bi, và một khi chúng ta đạt được những điều đó, thì chúng ta dĩ nhiên phải hành động thôi. Sau khi giác ngộ, đức Bụt đã đi vào đời để giúp người. Thiền định không phải để xa lánh thế tục; thiền định là nhìn rõ để có được cái tuệ giác cần thiết mà hành động. Nghĩ rằng thiền là chỉ ngồi đó vui hưởng sự bình an là không đúng".

Sau cuộc phỏng vấn ngắn gọn về Miến Điện, Thầy đã chia sẻ về những ưu tư đã chiếm trọn tâm trí Thầy buổi chiều hôm đó: Trước tiên, Thầy nói về vấn đề hâm nóng trái đất và sau đó là về chuyện ăn chay (ăn vật thực có mức sống thấp). Thầy thuật lại câu chuyệnngày xưa Bụt kể về một cặp vợ chồng phải vượt qua sa mạc với đứa con nhỏ, và khi hết thức ăn đã buộc lòng phải giết rồi ăn thịt đứa con mình. Họ mang theo xác đứa bé để ăn từng ngày và rất ân hận chuyện đã làm. “Sau khi kể câu chuyện cho các đệ tử, Bụt hỏi, “Cặp vợ chồng kia có sung sướng khi ăn thịt con mình không?” Quý thầy trả lời “Không, không thể nào”. Bụt nói “Ta phải ăn như thế nào để còn giữ được lòng từ bi trong tâm hồn”. Bằng không, chúng ta như đang ăn thịt con cái và các cháu nội ngoại của chúng ta. (kỹ nghệ chăn nuôi là một trong những nguyên nhân chính của tình trạng hâm nóng trái đất hiện nay). Thật là một lời nhắc nhở tuy bình dị mà thật nghiêm minh, khiến ta có cảm tưởng như có một khối thép đằng sau chiếc áo thầy tu bay nhẹ nhàng, nụ cười hiền lành, và lối hành xử hòa ái. 

 

Burma’s Monks: “Already a Success”

Friday, Oct. 12, 2007 By DAVID VAN BIEMA/NEW YORK CITY
http://www.time.com/time/world/article/0,8599,1670911,00.html 

The monk sat cross-legged in the Manhattan hotel room in augbergine robes on an aubergine prayer mat, a thermos of tea, his reading glasses and a book, Mindfulness in the Marketplace, arranged neatly by his side. Thich Nhat Hanh took time out from a U.S. tour to speak briefly with TIME about the monastic uprising in Burma. (See video Video- David Van Biema Interviews Thich Nhat Hanh).

Nhat Hanh has a long history as one of Buddhism's truly international spokespeople. ["Thich" is a name adopted by all Vietnamese monks and nuns upon ordination.] He first came to global attention in the early 1960s, when he led fellow monks in his native Vietnam to oppose the prosecution of the war there by either side — a position that eventually led to the deaths of several of his followers and his own exile. He continued his opposition from the United States, where his counsel was influential in convincing the Rev. Dr. Martin Luther King Jr. to announce his own opposition to the conflict. King subsequently nominated Hanh for the Nobel Peace Prize. He continued speaking and writing (in a variety of languages — he is a polyglot), working out a theory of "engaged Buddhism," exploring the commonalities between his philosophy and other world faiths, attaining a popularity (and book sales) in the U.S. second only to that of the Dalai Lama, and lending his opposition to a series of world conflicts, including America's involvement in Iraq. He now lives in a monastic community he founded in France. 

Buddhism has three major branches: Theravada, historically the simplest, which is now practiced primarily in South Asia and is the faith of the Burmese monks; Mahayana, of which Hanh's own Zen discipline is part; and the Dalai Lama's Tibetan branch, which is labeled Vajrayana. In conversation, however, Hanh stressed the unity of the three and their solidarity with the embattled Burmese. "They also practice mindfulness and concentration inside like us," he said. 

He said the Burmese monks had "done their job. It is already a success because if monks are imprisoned or have died, they have offered their spiritual leadership. And it is up to the people in Burma and the world to continue." Pressed on the question of martyrdom, he replied: "We nourish the awareness that monks are being persecuted and continue to suffer in order to support the people in Burma for the sake of democracy." 

Perhaps the most striking gesture made by his Burmese brethren before they were attacked was the symbolic act of turning their begging bowls upside down. In a Western culture where almsgiving happens in the confines of a church or synagogue, this may have seemed odd. But Nhat Hanh pointed out that it was a powerful statement of denial to the regime leaders. "In Buddhist culture," he explained, "offering food to the monk symbolizes the action of goodness, and if you have no opportunity to support the practice of spirituality then you are somehow left in the realm of darkness." Their supreme act of condemnation: giving the regime no chance to do good. The importance of monks in Burma was also suggested, in a grisly way, by reports that hundreds of Burmese soldiers had been arrested for refusing to shoot at them. 

In the U.S., the connection between Buddhism and social action is not readily understood. Many Americans perceive Buddhism as a philosophy that regards this world as transitory and unimportant; in this country, the most widely disseminated kind of Buddhism is a stripped-down version of Theravada practice with a strong emphasis on ritual supplemented by meditations on meta, or loving-kindness. Said Nhat Hanh: "Meditation is to get insight, to get understanding and compassion, and when you have them, you are compelled to act. The Buddha, after enlightenment, went out to help people. Meditation is not to avoid society; it is to look deep to have the kind of insight you need to take action. To think that it is just to sit down and enjoy the calm and peace, is wrong." 

After a brisk interview about Burma, Nhat Hanh gave some sense of the topics that were most on his mind that afternoon: he talked first about global warming and then about eating low on the food chain. He told a Buddhist story of a couple who were forced to cross a desert with their young son and, running out of food, killed and ate the child, whose diminishing corpse they carried with them, constantly apologizing to it. "After the Buddha told that story, he asked the monks, 'Do you think the couple enjoyed eating the flesh of their own son?'" Nhat Hanh recounted. "The monks said 'no, impossible.' The Buddha said, let us eat in such a way that will retain compassion in our heart. Otherwise we will be eating the flesh of our son and grandson." It was a stark and stern reminder of the steel beneath the flowing robe, gentle smile and peaceful demeanor. 

Hình Ảnh và Video

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1196)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1659)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1598)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1506)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1093)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1490)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1433)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1346)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1400)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1726)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1999)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1446)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1103)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1435)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2051)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1494)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1572)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1406)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2939)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1392)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1418)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1740)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1705)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1644)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1487)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2651)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1614)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1624)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1419)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1458)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1624)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1577)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1462)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1444)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1532)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2221)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1567)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1531)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1644)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1868)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1546)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1429)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1680)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1432)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1741)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2400)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1483)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1976)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1693)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1769)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1638)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1962)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1696)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1455)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1741)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1594)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1568)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1350)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1262)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1308)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant