Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

07. Phải coi như giới tăng sĩ Miến Điện đã thành công

24 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 14831)
07. Phải coi như giới tăng sĩ Miến Điện đã thành công
PHẢI COI NHƯ GIỚI TĂNG SỸ MIẾN ĐIỆN
ĐÃ THÀNH CÔNG 
Time Magazine trực tuyến, số ra ngày thứ sáu, 12 tháng 10 năm 2007
TIME Friday, Oct. 12, 2007 By DAVID VAN BIEMA/NEW YORK CITY
http://www.time.com/time/world/article/0,8599,1670911,00.html 

Phù Sa chuyển ngữ 

Trong chiếc áo tu sỹ màu nâu, Thiền sư ngồi xếp bằng trong thế hoa sen trên chiếc tọa cụ cũng màu nâu tại một khách sạn ở khu Manhattan, trung tâm Nữu Ước. Bên cạnh Thầy là bình trà, cặp kính và một cuốn sách nhan đề “Mindfulness in the Marketplace” (tạm dịch là Chánh niệm ở giữa chợ - do Thầy viết). Thiền sư Nhất Hạnh đã dành cho Tuần báo Time một khoảng thời gian rất ngắn giữa chuyến đi hoằng pháp ở Hoa Kỳ để nói về vấn đề các tu sỹ ở Miến Điện mà hiện nay đang rất được quan tâm. (xem Video- David Van Biema Interviews Thich Nhat Hanh)

Dài theo dòng lịch sử, ông thầy tu mang tên Nhất Hạnh đã thực sự là người phát ngôn cho đạo Phật trên toàn thế giới. (“Thích” là họ của tất cả quí thầy và quí sư cô Việt Nam mang khi vừa được xuất gia). Lần đầu tiên Thầy được thế giới biết đến là vào đầu thập niên 60, khi Thầy lãnh đạo giới tu sĩ Phật giáo trong nước chống lại sự theo đuổi chiến tranh tại Việt Nam của cả hai phía. Cái giá của sự lựa chọn này là sự hy sinh của một số đồng bào của Thầy và bản án biệt xứ của chính Thầy. Hoa kỳ là nơi mà lời kêu gọi của Thầy gây được nhiều ảnh hưởng nhất. Sự chống đối chiến tranh Việt Nam nơi đây của Thầy đã thuyết phục được Mục Sư Tiến Sĩ Martin Luther King Jr. đích thân bày tỏ lập trường chống đối của ông ta về cuộc chiến tại Việt Nam. Và sau đó Mục Sư King đã đề cử Thầy cho giải Nobel Hòa Bình năm 1967. Nhờ biết nhiều ngôn ngữ, Thầy tiếp tục viết lách và thuyết giảng khắp nơi bằng nhiều thứ tiếng, khai sinh cho phong trào “đạo Bụt dấn thân". Thầy tìm ra được những ngôn từ làm thành những mẫu số chung cho cái thấy về đạo Bụt này của Thầy và những niềm tin khác trên thế giới. Thầy và hàng chục cuốn sách của Thầy đã dành được nhiều sự mến mộ của quần chúng Hoa Kỳ, Uy tín của Thầy chỉ đứng thứ hai, sau đức Đạt Lai Lạt Ma. Thầy đã nhiều lần bày tỏ thái độ chống đối của Thầy với nhiều cuộc xung đột trên thế giới trong đó có cả cuộc can thiệp của Hoa Kỳ vào Iraq. Thầy hiện đang sống với rất nhiều đệ tử xuất giatại gia của Thầy tại một tu viện do chính mình thành lập ở miền Nam nước Pháp.

Đạo Phật có ba tông phái chính: Nam Tông (Thượng Tọa Bộ), theo sử học là tông phái đơn giản nhất, đang được thực hành phổ biến tại Nam Á và cũng là tín ngưỡng của chư Tăng Miến Điện; tông thứ hai, Bắc Tông, cũng là đạo Bụt Đại Thừatruyền thống Thiền của chính Thầy là một nhánh trong đó; và tông Kim Cang, tông phái của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Tuy nhiên trong cuộc mạn đàm, Thầy nhấn mạnh tới sự hợp nhất và đoàn kết của cả ba truyền thống trên trong sự ủng hộ cuộc đấu tranh của người dân Miến Điện. Thầy nói “Quí thầy ở Miến Điện cũng thực tập Niệm Định Tuệ như chúng tôi”.

Thầy nói phải coi như chư tăng Miến Điện đã "hoàn thành sứ mệnh của họ rồi. Họ đã thành công bởi vì cho dù đang bị tù đày hay mạng vong, quí thầy đã cống hiến phần lãnh đạo tâm linh cho toàn dân. Và bây giờ đây là đến phiên toàn dân Miến Điện và thế giới phải tiếp tục công tác ấy." Được hỏi về vấn đề tử đạo, Thầy trả lời: "Chúng ta nuôi dưỡng sự ý thức lớn rằng hiện đang có những thầy tu bị hành hạtiếp tục chịu khổ để ủng hộ cho nền dân chủ của người dân Miến Điện"

Có lẽ hành động gây chú ý nhiều nhất của chư tăng Miến Điện trước khi họ bị bỏ tùcử chỉ biểu tượng lật úp những chiếc bình bát. Trong văn hóa Tây phương việc cúng dường thường chỉ giới hạn trong nhà thờ Ky Tô giáo hay giáo đường Do Thái, vậy nên sự kiện này (lật úp bình bát - nghĩa là từ chối nhận phẩm vật cúng dường) có thể coi như lạ lùng. Tuy nhiên thiền sư Nhất Hạnh đã chỉ rõ đó là một lời tuyên bố hùng hồn gửi đến các vị lãnh đạo chính phủ về thái độ chống đối của họ. "Trong văn hóa Phật giáo", Thiền sư giải thích, "cúng dường phẩm vật cho chư tăng tượng trưng cho sự kiện được làm một việc thiện, và nếu mình không có cơ hội yểm trở sự tu tập tâm linh (như cúng dường chư tăng) thì mình bị coi như sống trong tăm tối". Các vị tu sĩ đã bày tỏ sự lên án bằng hành động mạnh mẽ nhất: không cho chính quyền cơ hội làm điều thiện. Vai trò quan trọng của chư tăng Miến Điện còn được tăng thêm qua những báo cáo rằng có hàng trăm binh sĩ Miến đã bị chính quyền bỏ tù vì từ chối cầm súng bắn quý thầy.

Ở Hoa Kỳ, mối liên hệ giữa Phật giáo và công việc xã hội chưa được mọi người hiểu rõ. Nhiều người Mỹ nhìn Phật giáo như một triết lý đã coi thế giới này chỉ là một cõi tạm và không quan trọng; ở xứ này, hình ảnhPhật giáo được phổ biến nhiều nhất là pháp môn cốt lõi của truyền thống Nam Tông với sự tập trung tâm ý qua sự quán tưởng về Bi, hay là Từ. Thiền sư Nhất Hạnh nói: "Thiền định là để có tuệ giác, để tăng trưởng sự hiểu biếtlòng từ bi, và một khi chúng ta đạt được những điều đó, thì chúng ta dĩ nhiên phải hành động thôi. Sau khi giác ngộ, đức Bụt đã đi vào đời để giúp người. Thiền định không phải để xa lánh thế tục; thiền định là nhìn rõ để có được cái tuệ giác cần thiết mà hành động. Nghĩ rằng thiền là chỉ ngồi đó vui hưởng sự bình an là không đúng".

Sau cuộc phỏng vấn ngắn gọn về Miến Điện, Thầy đã chia sẻ về những ưu tư đã chiếm trọn tâm trí Thầy buổi chiều hôm đó: Trước tiên, Thầy nói về vấn đề hâm nóng trái đất và sau đó là về chuyện ăn chay (ăn vật thực có mức sống thấp). Thầy thuật lại câu chuyệnngày xưa Bụt kể về một cặp vợ chồng phải vượt qua sa mạc với đứa con nhỏ, và khi hết thức ăn đã buộc lòng phải giết rồi ăn thịt đứa con mình. Họ mang theo xác đứa bé để ăn từng ngày và rất ân hận chuyện đã làm. “Sau khi kể câu chuyện cho các đệ tử, Bụt hỏi, “Cặp vợ chồng kia có sung sướng khi ăn thịt con mình không?” Quý thầy trả lời “Không, không thể nào”. Bụt nói “Ta phải ăn như thế nào để còn giữ được lòng từ bi trong tâm hồn”. Bằng không, chúng ta như đang ăn thịt con cái và các cháu nội ngoại của chúng ta. (kỹ nghệ chăn nuôi là một trong những nguyên nhân chính của tình trạng hâm nóng trái đất hiện nay). Thật là một lời nhắc nhở tuy bình dị mà thật nghiêm minh, khiến ta có cảm tưởng như có một khối thép đằng sau chiếc áo thầy tu bay nhẹ nhàng, nụ cười hiền lành, và lối hành xử hòa ái. 

 

Burma’s Monks: “Already a Success”

Friday, Oct. 12, 2007 By DAVID VAN BIEMA/NEW YORK CITY
http://www.time.com/time/world/article/0,8599,1670911,00.html 

The monk sat cross-legged in the Manhattan hotel room in augbergine robes on an aubergine prayer mat, a thermos of tea, his reading glasses and a book, Mindfulness in the Marketplace, arranged neatly by his side. Thich Nhat Hanh took time out from a U.S. tour to speak briefly with TIME about the monastic uprising in Burma. (See video Video- David Van Biema Interviews Thich Nhat Hanh).

Nhat Hanh has a long history as one of Buddhism's truly international spokespeople. ["Thich" is a name adopted by all Vietnamese monks and nuns upon ordination.] He first came to global attention in the early 1960s, when he led fellow monks in his native Vietnam to oppose the prosecution of the war there by either side — a position that eventually led to the deaths of several of his followers and his own exile. He continued his opposition from the United States, where his counsel was influential in convincing the Rev. Dr. Martin Luther King Jr. to announce his own opposition to the conflict. King subsequently nominated Hanh for the Nobel Peace Prize. He continued speaking and writing (in a variety of languages — he is a polyglot), working out a theory of "engaged Buddhism," exploring the commonalities between his philosophy and other world faiths, attaining a popularity (and book sales) in the U.S. second only to that of the Dalai Lama, and lending his opposition to a series of world conflicts, including America's involvement in Iraq. He now lives in a monastic community he founded in France. 

Buddhism has three major branches: Theravada, historically the simplest, which is now practiced primarily in South Asia and is the faith of the Burmese monks; Mahayana, of which Hanh's own Zen discipline is part; and the Dalai Lama's Tibetan branch, which is labeled Vajrayana. In conversation, however, Hanh stressed the unity of the three and their solidarity with the embattled Burmese. "They also practice mindfulness and concentration inside like us," he said. 

He said the Burmese monks had "done their job. It is already a success because if monks are imprisoned or have died, they have offered their spiritual leadership. And it is up to the people in Burma and the world to continue." Pressed on the question of martyrdom, he replied: "We nourish the awareness that monks are being persecuted and continue to suffer in order to support the people in Burma for the sake of democracy." 

Perhaps the most striking gesture made by his Burmese brethren before they were attacked was the symbolic act of turning their begging bowls upside down. In a Western culture where almsgiving happens in the confines of a church or synagogue, this may have seemed odd. But Nhat Hanh pointed out that it was a powerful statement of denial to the regime leaders. "In Buddhist culture," he explained, "offering food to the monk symbolizes the action of goodness, and if you have no opportunity to support the practice of spirituality then you are somehow left in the realm of darkness." Their supreme act of condemnation: giving the regime no chance to do good. The importance of monks in Burma was also suggested, in a grisly way, by reports that hundreds of Burmese soldiers had been arrested for refusing to shoot at them. 

In the U.S., the connection between Buddhism and social action is not readily understood. Many Americans perceive Buddhism as a philosophy that regards this world as transitory and unimportant; in this country, the most widely disseminated kind of Buddhism is a stripped-down version of Theravada practice with a strong emphasis on ritual supplemented by meditations on meta, or loving-kindness. Said Nhat Hanh: "Meditation is to get insight, to get understanding and compassion, and when you have them, you are compelled to act. The Buddha, after enlightenment, went out to help people. Meditation is not to avoid society; it is to look deep to have the kind of insight you need to take action. To think that it is just to sit down and enjoy the calm and peace, is wrong." 

After a brisk interview about Burma, Nhat Hanh gave some sense of the topics that were most on his mind that afternoon: he talked first about global warming and then about eating low on the food chain. He told a Buddhist story of a couple who were forced to cross a desert with their young son and, running out of food, killed and ate the child, whose diminishing corpse they carried with them, constantly apologizing to it. "After the Buddha told that story, he asked the monks, 'Do you think the couple enjoyed eating the flesh of their own son?'" Nhat Hanh recounted. "The monks said 'no, impossible.' The Buddha said, let us eat in such a way that will retain compassion in our heart. Otherwise we will be eating the flesh of our son and grandson." It was a stark and stern reminder of the steel beneath the flowing robe, gentle smile and peaceful demeanor. 

Hình Ảnh và Video

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 212)
A-la-hán là vị đã chứng đạt quả vị thứ tư trong bốn Thánh quả: Kinh Sa-môn quả của Trường bộ kinh có nêu:
(Xem: 290)
Giáo lý của nhà Phật được trình bày một cách tuần tự thứ lớp tạo thành một hệ thống hợp lý có tương quan chặt chẽ với nhau,
(Xem: 496)
Đức Phật thị hiện trong đời vì một đại sự nhân duyên: “Khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến”.
(Xem: 474)
Trong Kinh Giải Thâm Mật do ngài Huyền Trang dịch, phẩm Du già (Yoga) thứ 6 giảng về Chỉ (Samatha, Định), Quán (Vipassana, Quán) và Chỉ - Quán đồng thời.
(Xem: 495)
Hầu hết các loài trên hành tinh này đều thiếu khả năng trí tuệ để xây dựng hệ thống niềm tin.
(Xem: 567)
Hầu như ai cũng công nhận rằng kinh sách cổ xưa đã trải qua nhiều đời và phải chịu sự sửa đổi, thêm bớt, hoặc hoàn toàn do ngụy tạo.
(Xem: 598)
Như một người lạc lối trong rừng hoang nguy hiểm chợt cảm thấy an ổn khi tìm thấy được đường ra, Bồ-đề Nguyện và Bồ-đề Hành
(Xem: 626)
Chúng ta ở đây để chia sẻ suy nghĩ của mình về những gì Phật giáo có thể mang lại trong thời đại Trí tuệ nhân tạo.
(Xem: 596)
Trong Kinh Tạng Pali, có kể hai truyện về hai người cha thời Đức Phật. Qua hai truyện này, chúng ta sẽ thấy sức mạnh của Chánh pháp.
(Xem: 764)
Mở đầu Bản “Giải thích Sáu mươi kệ tụng biện luận lý tính duyên khởi của Long Thọ”, ngài Nguyệt Xứng viết:
(Xem: 846)
Để phân tích sâu hơn câu chuyện "Bốn cô vợ" qua lăng kính Phật giáo, tôi sẽ mở rộng các khía cạnh triết lý,
(Xem: 699)
Là một thuật ngữ âm Hán – Việt, có lẽ khó hiểu với một số Phật tử cũng như những người trẻ.
(Xem: 1027)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳ là thời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 993)
Trong suốt khoảng thời gian mười lăm thế kỷ khi Phật giáo có mặt ở Ấn Độ, đã xuất hiện những quan điểm khác nhau về...
(Xem: 807)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phật là phật tính. Và cũng do phật tính mà Đức Phật đã ban cho những lời giảng.
(Xem: 897)
Đức Phật (khoảng năm 450 trước Công nguyên) là người có giáo lý tạo thành nền tảng của truyền thống Phật giáo.
(Xem: 995)
Chỗ ở của người tu thường là nơi thanh vắng, núi rừng. Thời Đức Phật còn tại thế cũng thường ở trong những khu rừng.
(Xem: 869)
Trên con đường tiến hóa của mình, loài người tiến theo hướng càng ngày càng thiện lành hơn.
(Xem: 1147)
Đầu đà tăng còn gọi là khổ hạnh tăng. Hán dịch chữ Tăng, không chỉ riêng tăng nhân Phật giáo mà nhằm chỉ vị tăng của các tôn giáo Ấn Độ cổ đại.
(Xem: 1210)
Truyền Đăng sinh năm 1554, họ Diệp, hiệu Vô Tận, biệt hiệu Hữu Môn.
(Xem: 1281)
Tính nối kết là một đặc trưng của kinh Pháp Hoa. Ở đây chỉ trích ra một ít câu để làm rõ.
(Xem: 1278)
Vạn sự vạn vật hay các pháp hữu vi đều từ duyên mà khởi lên, chứ không có tự tánh.
(Xem: 1663)
Lama Zopa Rinpoche giải thích phương pháp thiền về tính không trong cuộc sống hàng ngày.
(Xem: 2005)
Vạn sự vạn vật hay các pháp hữu vi đều từ duyên mà khởi lên, chứ không có tự tánh.
(Xem: 1626)
Trong bài này sẽ nghiên cứu về chương thứ nhất, phẩm Tựa, của kinh Pháp Hoa để nhìn thấy phần nào tính vũ trụ của kinh
(Xem: 1746)
Khi một thiền giả theo đuổi con đường giới, vị ấy nên khởi sự thực hành khổ hạnhđể kiện toàn các đức đặc biệt ít muốn, biết đủ
(Xem: 2018)
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta được phát khởi từ...
(Xem: 2080)
Hai thời công phu còn gọi là triêu mộ khóa tụng (朝暮课诵) hoặc nhị khóa, tảo vãn khóa, đều áp dụng cho hàng xuất giatại gia mỗi ngày.
(Xem: 2307)
Người trí tạo thiên đường cho chính mình, kẻ ngu tạo địa ngục cho chính mình ngay đây và sau này.
(Xem: 2035)
Chúng ta kinh nghiệm thế giới vật chất bằng sáu giác quan của mình: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
(Xem: 1715)
Ta đã già rồi ư? Sự vô thường của thời gian quả thật không gì chống lại được.
(Xem: 2073)
Kinh Hoa Nghiêm còn gọi kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, là một kinh điển trọng yếu của Đại thừa. Bản kinh mô tả cảnh giới trang nghiêm huyền diệu
(Xem: 1830)
Từ bây giờ, là người mới xuất gia, nhiệm vụ của các con là sửa đổi và phát triển bản thân.
(Xem: 2159)
Việt Namquốc gia ở vùng Đông Nam Á cho nên chúng ta may mắn được hấp thụhai trường phái Phật giáo lớn nhất của thế giới,
(Xem: 2062)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 2439)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 2045)
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta được phát khởi từ
(Xem: 2051)
Chủng tử là hạt mầm của đời sống, là nguồn năng lượng đơn vị cấu thành nghiệp lực, là yếu tốsâu kín và căn bản quyết định sự hình thành cái ‘Ta’ (Ngã)
(Xem: 2298)
Đế Nhàn, gọi đầy đủ là Cổ Hư Đế Nhàn, là tổ sư đời thứ 43 Thiên Thai tông, một bậc cao Tăng cận đại, phạm hạnhcao khiết, giỏi giảng kinh thuyết pháp, độ chúng rất đông.
(Xem: 1832)
Giải thoát thì không có trước có sau, không có thừa! Và không có để lại bất kỳ cái gì.
(Xem: 2093)
Bản kinh chúng ta đang có là bản kinh 262 trong Tạp A Hàm Hán Tạng. Trong Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikaya) của tạng Pāli có một kinh tương đương, đó là kinh Chiên Đà.
(Xem: 2198)
Thực tại được kinh Hoa Nghiêm gọi là pháp thân Phật, được diễn tả nhiều trong các bài kệ của phẩm đầu tiên Thế Chủ Diệu Nghiêm.
(Xem: 2217)
Gần 26 thế kỷ về trước, sau khi kinh qua nhiều pháp môn tu tập nhưng không thành công, Đức Phật đã quyết định thử nghiệm chân lý bằng cách tự thanh tịnh lấy tâm mình.
(Xem: 1581)
Tín là niềm tin. Niềm tin vào Tam Bảotin tưởng vào Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 2205)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian đem lại an vui cho tất cả chúng sanh. Đạo Phật là đạo của giác ngộgiải thoát.
(Xem: 1585)
Pháp Lục hòa là pháp được đức Đạo sư nói ra để dạy cho các đệ tử xuất gia của Ngài lấy đó làm nền tảng căn bản cho nếp sống cộng đồng Tăng đoàn
(Xem: 1529)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha
(Xem: 1420)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người
(Xem: 2262)
Sự thành tựu tối thượng mà những vị đang đi trên con đường độc nhất tiến tới giác ngộ, là khả năng thành tựu tất cả từ hư vô.
(Xem: 1800)
Phật pháp như thuốc hay, nhưng tùy theo căn bịnh.
(Xem: 2119)
Pháp Duyên khởi, tiếng Phạn là Pratīya-samutpāda. Pratīya, là sự hướng đến. Nghĩa là cái này hướng đến cái kia và cái kia hướng đến cái này.
(Xem: 2434)
Phẩm này tiếng Phạn Sadāparibhūta. Sadā là thường, mọi lúc, mọi thời gian; Paribhūta là không khinh thường.
(Xem: 2680)
Ngày xưa, ở thành Xá-vệ có một vị trưởng giả giàu có, tiền tài châu báu vô lượng. Ông thường thứ tự thỉnh các vị sa-môn đến nhà cúng dường.
(Xem: 2852)
Đối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa.
(Xem: 2504)
Truyền thống Đại thừa Á Đông thường dịch nghĩa prajñāpāramitā là Huệ đáo bỉ ngạn (zh. 慧到彼岸), Trí độ(zh. 智度), Trí huệ độ người sang bờ bên kia.
(Xem: 2451)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(Xem: 1852)
Không có một chỗ nào để trụ trong giáo pháp Trung đạo. Tâm không có chỗ trụ thì không tự giải quyết được gì vì không có nơi để tập trung, nắm níu.
(Xem: 1859)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(Xem: 1667)
Kamma, Nghiệp, theo đúng nghĩa của danh từ, là hành động, hay việc làm. Định nghĩa cùng tột của Nghiệp là Tác ý (cetana).
Quảng Cáo Bảo Trợ
AZCMENU Cloudbase: Giải pháp TV Menu thông minh, tiện lợi, chuyên nghiệp!
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM