Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

07. Phải coi như giới tăng sĩ Miến Điện đã thành công

24 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 12689)
07. Phải coi như giới tăng sĩ Miến Điện đã thành công
PHẢI COI NHƯ GIỚI TĂNG SỸ MIẾN ĐIỆN
ĐÃ THÀNH CÔNG 
Time Magazine trực tuyến, số ra ngày thứ sáu, 12 tháng 10 năm 2007
TIME Friday, Oct. 12, 2007 By DAVID VAN BIEMA/NEW YORK CITY
http://www.time.com/time/world/article/0,8599,1670911,00.html 

Phù Sa chuyển ngữ 

Trong chiếc áo tu sỹ màu nâu, Thiền sư ngồi xếp bằng trong thế hoa sen trên chiếc tọa cụ cũng màu nâu tại một khách sạn ở khu Manhattan, trung tâm Nữu Ước. Bên cạnh Thầy là bình trà, cặp kính và một cuốn sách nhan đề “Mindfulness in the Marketplace” (tạm dịch là Chánh niệm ở giữa chợ - do Thầy viết). Thiền sư Nhất Hạnh đã dành cho Tuần báo Time một khoảng thời gian rất ngắn giữa chuyến đi hoằng pháp ở Hoa Kỳ để nói về vấn đề các tu sỹ ở Miến Điện mà hiện nay đang rất được quan tâm. (xem Video- David Van Biema Interviews Thich Nhat Hanh)

Dài theo dòng lịch sử, ông thầy tu mang tên Nhất Hạnh đã thực sự là người phát ngôn cho đạo Phật trên toàn thế giới. (“Thích” là họ của tất cả quí thầy và quí sư cô Việt Nam mang khi vừa được xuất gia). Lần đầu tiên Thầy được thế giới biết đến là vào đầu thập niên 60, khi Thầy lãnh đạo giới tu sĩ Phật giáo trong nước chống lại sự theo đuổi chiến tranh tại Việt Nam của cả hai phía. Cái giá của sự lựa chọn này là sự hy sinh của một số đồng bào của Thầy và bản án biệt xứ của chính Thầy. Hoa kỳ là nơi mà lời kêu gọi của Thầy gây được nhiều ảnh hưởng nhất. Sự chống đối chiến tranh Việt Nam nơi đây của Thầy đã thuyết phục được Mục Sư Tiến Sĩ Martin Luther King Jr. đích thân bày tỏ lập trường chống đối của ông ta về cuộc chiến tại Việt Nam. Và sau đó Mục Sư King đã đề cử Thầy cho giải Nobel Hòa Bình năm 1967. Nhờ biết nhiều ngôn ngữ, Thầy tiếp tục viết lách và thuyết giảng khắp nơi bằng nhiều thứ tiếng, khai sinh cho phong trào “đạo Bụt dấn thân". Thầy tìm ra được những ngôn từ làm thành những mẫu số chung cho cái thấy về đạo Bụt này của Thầy và những niềm tin khác trên thế giới. Thầy và hàng chục cuốn sách của Thầy đã dành được nhiều sự mến mộ của quần chúng Hoa Kỳ, Uy tín của Thầy chỉ đứng thứ hai, sau đức Đạt Lai Lạt Ma. Thầy đã nhiều lần bày tỏ thái độ chống đối của Thầy với nhiều cuộc xung đột trên thế giới trong đó có cả cuộc can thiệp của Hoa Kỳ vào Iraq. Thầy hiện đang sống với rất nhiều đệ tử xuất giatại gia của Thầy tại một tu viện do chính mình thành lập ở miền Nam nước Pháp.

Đạo Phật có ba tông phái chính: Nam Tông (Thượng Tọa Bộ), theo sử học là tông phái đơn giản nhất, đang được thực hành phổ biến tại Nam Á và cũng là tín ngưỡng của chư Tăng Miến Điện; tông thứ hai, Bắc Tông, cũng là đạo Bụt Đại Thừatruyền thống Thiền của chính Thầy là một nhánh trong đó; và tông Kim Cang, tông phái của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Tuy nhiên trong cuộc mạn đàm, Thầy nhấn mạnh tới sự hợp nhất và đoàn kết của cả ba truyền thống trên trong sự ủng hộ cuộc đấu tranh của người dân Miến Điện. Thầy nói “Quí thầy ở Miến Điện cũng thực tập Niệm Định Tuệ như chúng tôi”.

Thầy nói phải coi như chư tăng Miến Điện đã "hoàn thành sứ mệnh của họ rồi. Họ đã thành công bởi vì cho dù đang bị tù đày hay mạng vong, quí thầy đã cống hiến phần lãnh đạo tâm linh cho toàn dân. Và bây giờ đây là đến phiên toàn dân Miến Điện và thế giới phải tiếp tục công tác ấy." Được hỏi về vấn đề tử đạo, Thầy trả lời: "Chúng ta nuôi dưỡng sự ý thức lớn rằng hiện đang có những thầy tu bị hành hạtiếp tục chịu khổ để ủng hộ cho nền dân chủ của người dân Miến Điện"

Có lẽ hành động gây chú ý nhiều nhất của chư tăng Miến Điện trước khi họ bị bỏ tùcử chỉ biểu tượng lật úp những chiếc bình bát. Trong văn hóa Tây phương việc cúng dường thường chỉ giới hạn trong nhà thờ Ky Tô giáo hay giáo đường Do Thái, vậy nên sự kiện này (lật úp bình bát - nghĩa là từ chối nhận phẩm vật cúng dường) có thể coi như lạ lùng. Tuy nhiên thiền sư Nhất Hạnh đã chỉ rõ đó là một lời tuyên bố hùng hồn gửi đến các vị lãnh đạo chính phủ về thái độ chống đối của họ. "Trong văn hóa Phật giáo", Thiền sư giải thích, "cúng dường phẩm vật cho chư tăng tượng trưng cho sự kiện được làm một việc thiện, và nếu mình không có cơ hội yểm trở sự tu tập tâm linh (như cúng dường chư tăng) thì mình bị coi như sống trong tăm tối". Các vị tu sĩ đã bày tỏ sự lên án bằng hành động mạnh mẽ nhất: không cho chính quyền cơ hội làm điều thiện. Vai trò quan trọng của chư tăng Miến Điện còn được tăng thêm qua những báo cáo rằng có hàng trăm binh sĩ Miến đã bị chính quyền bỏ tù vì từ chối cầm súng bắn quý thầy.

Ở Hoa Kỳ, mối liên hệ giữa Phật giáo và công việc xã hội chưa được mọi người hiểu rõ. Nhiều người Mỹ nhìn Phật giáo như một triết lý đã coi thế giới này chỉ là một cõi tạm và không quan trọng; ở xứ này, hình ảnhPhật giáo được phổ biến nhiều nhất là pháp môn cốt lõi của truyền thống Nam Tông với sự tập trung tâm ý qua sự quán tưởng về Bi, hay là Từ. Thiền sư Nhất Hạnh nói: "Thiền định là để có tuệ giác, để tăng trưởng sự hiểu biếtlòng từ bi, và một khi chúng ta đạt được những điều đó, thì chúng ta dĩ nhiên phải hành động thôi. Sau khi giác ngộ, đức Bụt đã đi vào đời để giúp người. Thiền định không phải để xa lánh thế tục; thiền định là nhìn rõ để có được cái tuệ giác cần thiết mà hành động. Nghĩ rằng thiền là chỉ ngồi đó vui hưởng sự bình an là không đúng".

Sau cuộc phỏng vấn ngắn gọn về Miến Điện, Thầy đã chia sẻ về những ưu tư đã chiếm trọn tâm trí Thầy buổi chiều hôm đó: Trước tiên, Thầy nói về vấn đề hâm nóng trái đất và sau đó là về chuyện ăn chay (ăn vật thực có mức sống thấp). Thầy thuật lại câu chuyệnngày xưa Bụt kể về một cặp vợ chồng phải vượt qua sa mạc với đứa con nhỏ, và khi hết thức ăn đã buộc lòng phải giết rồi ăn thịt đứa con mình. Họ mang theo xác đứa bé để ăn từng ngày và rất ân hận chuyện đã làm. “Sau khi kể câu chuyện cho các đệ tử, Bụt hỏi, “Cặp vợ chồng kia có sung sướng khi ăn thịt con mình không?” Quý thầy trả lời “Không, không thể nào”. Bụt nói “Ta phải ăn như thế nào để còn giữ được lòng từ bi trong tâm hồn”. Bằng không, chúng ta như đang ăn thịt con cái và các cháu nội ngoại của chúng ta. (kỹ nghệ chăn nuôi là một trong những nguyên nhân chính của tình trạng hâm nóng trái đất hiện nay). Thật là một lời nhắc nhở tuy bình dị mà thật nghiêm minh, khiến ta có cảm tưởng như có một khối thép đằng sau chiếc áo thầy tu bay nhẹ nhàng, nụ cười hiền lành, và lối hành xử hòa ái. 

 

Burma’s Monks: “Already a Success”

Friday, Oct. 12, 2007 By DAVID VAN BIEMA/NEW YORK CITY
http://www.time.com/time/world/article/0,8599,1670911,00.html 

The monk sat cross-legged in the Manhattan hotel room in augbergine robes on an aubergine prayer mat, a thermos of tea, his reading glasses and a book, Mindfulness in the Marketplace, arranged neatly by his side. Thich Nhat Hanh took time out from a U.S. tour to speak briefly with TIME about the monastic uprising in Burma. (See video Video- David Van Biema Interviews Thich Nhat Hanh).

Nhat Hanh has a long history as one of Buddhism's truly international spokespeople. ["Thich" is a name adopted by all Vietnamese monks and nuns upon ordination.] He first came to global attention in the early 1960s, when he led fellow monks in his native Vietnam to oppose the prosecution of the war there by either side — a position that eventually led to the deaths of several of his followers and his own exile. He continued his opposition from the United States, where his counsel was influential in convincing the Rev. Dr. Martin Luther King Jr. to announce his own opposition to the conflict. King subsequently nominated Hanh for the Nobel Peace Prize. He continued speaking and writing (in a variety of languages — he is a polyglot), working out a theory of "engaged Buddhism," exploring the commonalities between his philosophy and other world faiths, attaining a popularity (and book sales) in the U.S. second only to that of the Dalai Lama, and lending his opposition to a series of world conflicts, including America's involvement in Iraq. He now lives in a monastic community he founded in France. 

Buddhism has three major branches: Theravada, historically the simplest, which is now practiced primarily in South Asia and is the faith of the Burmese monks; Mahayana, of which Hanh's own Zen discipline is part; and the Dalai Lama's Tibetan branch, which is labeled Vajrayana. In conversation, however, Hanh stressed the unity of the three and their solidarity with the embattled Burmese. "They also practice mindfulness and concentration inside like us," he said. 

He said the Burmese monks had "done their job. It is already a success because if monks are imprisoned or have died, they have offered their spiritual leadership. And it is up to the people in Burma and the world to continue." Pressed on the question of martyrdom, he replied: "We nourish the awareness that monks are being persecuted and continue to suffer in order to support the people in Burma for the sake of democracy." 

Perhaps the most striking gesture made by his Burmese brethren before they were attacked was the symbolic act of turning their begging bowls upside down. In a Western culture where almsgiving happens in the confines of a church or synagogue, this may have seemed odd. But Nhat Hanh pointed out that it was a powerful statement of denial to the regime leaders. "In Buddhist culture," he explained, "offering food to the monk symbolizes the action of goodness, and if you have no opportunity to support the practice of spirituality then you are somehow left in the realm of darkness." Their supreme act of condemnation: giving the regime no chance to do good. The importance of monks in Burma was also suggested, in a grisly way, by reports that hundreds of Burmese soldiers had been arrested for refusing to shoot at them. 

In the U.S., the connection between Buddhism and social action is not readily understood. Many Americans perceive Buddhism as a philosophy that regards this world as transitory and unimportant; in this country, the most widely disseminated kind of Buddhism is a stripped-down version of Theravada practice with a strong emphasis on ritual supplemented by meditations on meta, or loving-kindness. Said Nhat Hanh: "Meditation is to get insight, to get understanding and compassion, and when you have them, you are compelled to act. The Buddha, after enlightenment, went out to help people. Meditation is not to avoid society; it is to look deep to have the kind of insight you need to take action. To think that it is just to sit down and enjoy the calm and peace, is wrong." 

After a brisk interview about Burma, Nhat Hanh gave some sense of the topics that were most on his mind that afternoon: he talked first about global warming and then about eating low on the food chain. He told a Buddhist story of a couple who were forced to cross a desert with their young son and, running out of food, killed and ate the child, whose diminishing corpse they carried with them, constantly apologizing to it. "After the Buddha told that story, he asked the monks, 'Do you think the couple enjoyed eating the flesh of their own son?'" Nhat Hanh recounted. "The monks said 'no, impossible.' The Buddha said, let us eat in such a way that will retain compassion in our heart. Otherwise we will be eating the flesh of our son and grandson." It was a stark and stern reminder of the steel beneath the flowing robe, gentle smile and peaceful demeanor. 

Hình Ảnh và Video

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1327)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1545)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1677)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1657)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1047)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1535)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1525)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1698)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1961)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1555)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1382)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1392)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1580)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1169)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1295)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1305)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1715)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1666)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3040)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1847)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1382)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1234)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1296)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1431)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1334)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1937)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1709)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1908)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1839)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2418)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1803)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2161)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2263)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2326)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1872)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1992)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2047)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1983)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2627)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1957)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1912)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1972)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1927)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2198)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2345)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 2017)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2135)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1901)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1946)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2443)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2356)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4076)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2526)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3230)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2502)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2076)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1813)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3329)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2368)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant