Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kho Tàng Sáng Suốt Vĩ Đại Của Tự Tánh

09 Tháng Bảy 201422:01(Xem: 8683)
Kho Tàng Sáng Suốt Vĩ Đại Của Tự Tánh

Kho Tàng Sáng Suốt Vĩ Đại Của Tự Tánh

H.T. Tuyên Hóa

Chúng sinh sinh ra từ vô thủy, chết ở vô chung, trôi lăn trong vòng sống chết. Chúng sinh trong cõi luân hồi vô thủy vô chung ấy đến rồi đi, đi rồi đến giống như hạt bụi nhỏ, phút chốc bỗng sinh trên trời, bỗng chốc sinh trên mặt đất, sinh trong loài người, hoặc sinh làm thú vật, hay sinh ở địa ngục hay sinh trong loài Atula. Không có lúc khởi đầu, cũng chẳng có lúc chấm dứt. Chỉ đến khi nào bạn đạt được quả vị Phật, bạn mới chấm dứt đượĩc luân hồi sinh tử. Nhưng trước khi trở thành Phật, bạn vẫn còn trong vòng triển chuyển luân hồi. Nên nói : "(Bồ tát hữu cách ấm chi mê, La Hán hữu trụ thai chi hôn). Bồ Tát còn mê lầm khi thọ thân ngũ ấm. A-la-hán còn hôn muội lúc trụ thai" cho dù bạn là một bậc Pháp thân đại sĩ thị hiện giữa đời, đôi khi bạn vẫn còn bị dòng sinh tử cuốn phăng khiến cho mê muội, không biết làm sao chấm dứt dòng sinh tử ấy.

Sự sống chết của chúng ta, sinh ra rồi chết, chết rồi lại sinh, đó là một vòng sinh tử lớn lao. Ngoài ra, ta còn có một vòng sinh tử nhỏ nhoi nữa, đó là ngày ta sinh ra, dù được sinh ra nhưng có nghĩa là ta đã chết rồi. Ngày ta chết được đặt vào ngay ngày ta chào đời. Do vậy, cuộc đời chúng ta là một vòng tròn vĩ đại tiếp nối giữa sự sống và sự chết. Nên nếu ta được sinh ra vào một ngày thì cũng sẽ có một ngày ta chết đi. Vì một khi có sự sinh ra thì cũng có sự chết đi. Nếu không có sự sinh ra thì cũng không có sự chết.

Khi nói vô thủy -- không có chỗ khởi đầu -- Mọi người đều giải thích như một sinh thể hiện hữu mà không có sự sinh ra và không biết khi nào thì hủy diệt. Điều đó liên quan đến thời gian vô thủy ; nó bắt đầu từ một kiếp vô cùng tận, không có sự khởi đầu trong quá khứ, suốt tới một kiếp không cùng tận trong tương lai. Vậy thì cái gì là vô thủy (không có chỗ khởi đầu)? Và cái gì là không có nơi kết thúc (vô chung)? Đó là cái mà mọi người đều biết, trong Anh ngữ gọi là zero, và tiếng Hán gọi là ling (số O). O này không có khởi đầu cũng không có chỗ kết thúc. Cái không khởi đầu chỉ có thể là O. Nếu bạn cắt rời cái O này ra, nó trở thành một ( trong tiếng Hán có nghĩa là NHẤT), Đây là chỗ bắt đầu, một lần là 1, rồi một lần nữa là 2; khi bạn thêm 1 và cứ thêm 1 vào nữa sẽ có 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10. Từ 10 thì số 100 sẽ được lập. Từ đó biến thành vạn (trăm ngàn), rồi 100 vạn (triệu), thiên vạn ức , mãi đến vô tận. Đó là chỗ khởi đầu của con số.

Trong thời đại khoa học ta đang sống hiện nay, chúng tathể chế tạo hỏa tiển để đưa vệ tinh vào không gian. Các vệ tinh bay quanh quỹ đạo không gian mà không bao giờ ngừng, đó là khởi đầu (hữu thủy) . Với sự giúp sức của toán học, của máy tính, ta có thể phóng hỏa tiễn vào không gian. Đó là tác dụng của sự bắt đầu (hữu thủy). Đó là sự biến hóa của số học. Thế thì có chỗ kết thúc chăng? Chúng ta chưa biết lúc nào kết thúc, nhưng sự việc thì dần dần tiến đến sự chấm dứt (chung). Tương tự như giai đoạn không trong 4 tiến trình Thành -- Trụ -- Hoại -- Không . Kiếp Thành là khởi đầu . Kiếp này trãi qua 20 tiểu kiếp rồi đến Kiếp Trụ 20 tiểu kiếp, Kiếp Hoại 20 tiểu kiếp, Kiếp Không 20 tiểu kiếp. Có thể nói đó là một vòng khởi đầu và kết thúc.

Tất cả chúng sinh đã từng xuất hiện từ vô thủy kiếp đến nay, bạn nói họ từ đâu đến ? Bạn hãy nghiên cứu xem. Thí dụ như loài người chúng ta. Phải chăng người đàn ông hiện hữu trước đàn bà, thế thì không có đàn bà ai sẽ sinh ra đàn ông. Nếu bạn cho rằng đàn bà có trước, thế thì không có đàn ông làm sao có đượĩc đàn bà ?. Đây là "vô thủy" - chẳng biết được khởi đầu từ đâu. Lấy một ví dụ khác. Bạn nói rằng gà có trước trứng, hay trứng có trước gà? Ta có thể nói gà sinh từ trong trứng. Tốt, nếu không có gà, lấy đâu có trứng ? Sự suy cứu của chúng ta không sáng tỏ được đạo lý này. Gà cũng đến từ không nơi khởi đầu - vô thủy -, con người cũng đến từ nơi không khởi đầu, từ O. O này thì vô thủy vô chung - không chỗ khởi đầu và không nơi kết thúc, nó chẳng có trong, chẳng có ngoài, chẳng nhỏ, chẳng lớn. Về phương diện cực vi để xét, O này nhỏ như vi trần. Nếu ta phóng lớn nó ra, O này bao trùm cả pháp giới. Đến cùng tận hư không, khắp cả pháp giới không có gì qua khỏi O này . Nếu đem cùng tận hư không khắp cả pháp giới nghiền thành vi trần, thì hạt vi trần ấy cũng chẳng rời khỏi cái O mà có. Do vậy, O là cội nguồn của muôn sự sinh sinh hóa hóa. Là nguyên lý chân không diệu hữu, chẳng khởi đầu, chẳng kết thúc của vạn vật. Khi O mở ra, nó biến thành hư không, thành Pháp giới. Đó là chân không, khi thâu nó lại, O thành vi trần. Dù hạt bụi tuy nhỏ nhưng chúng là một sự hiện hữu nhiệm mầu là "diệu hữu". Các bạn hãy quan sát kỹ điều này. Nếu hiểu được đạo lý này, tức là bạn hiểu rõ chân Pháp. Nếu chưa hiểu, thì vẫn còn là người mê muội, chưa phải là người có trí tuệ chân chính.

Nếu bạn đã khai ngộ, thì O này là trí tuệ sáng suốt rộng lớn (đại trí huệ quang minh). Còn nếu bạn chưa giác ngộ thì nó chính là vô minh. Vô minh cũng chỉ là cái O này. Trí tuệ sáng suốt lớn lao cũng chỉ là cái O này. Vậy, O là khởi đầu và là kết thúc, nó chẳng ở trong mà cũng chẳng ở ngoài, chẳng lớn, chẳng nhỏ. Nó rất lớn, chẳng vật gì ở ngoài nó được, chẳng có gì lớn hơn nó được. Khi bạn vẽ một vòng tròn, bạn có thể vẽ lớn chừng nào cũng được, hay muốn nhỏ cỡ nào tùy ý. Do đó, nó rất lớn, chẳng có gì ở ngoài nó cả, và nó rất nhỏ đến nỗi không có gì nằm trong nó được. Cái lớn của O hóa thành bản nguyên thanh tịnh, bản tánh chơn như nhiệm mầu (thanh tịnh bản nguyên, chân như diệu tánh). Cái nhỏ nhiệm ẩn tàng của Omột niệm vô minh tối sơ. Đây là điều tôi muốn nói về vô thủy.

Luân hồi sinh tử cũng là cái O này. Gọi là luân hồi trong 6 nẻo, cũng chính là luân chuyển trong O. Trước khi vòng tròn này bị phá vỡ, chúng sinh sinh rồi chết, chết rồi lại sinh, luân hồi trong O vô lượng vô biên đại kiếp. Đây gọi là luân hồi vĩnh cửu trong vòng sống chết. Bạn xem chữ "vĩnh cửu" ấy có đáng sợ không? Đúng vậy! Một khi bạn đã trôi lăn, trôi lăn mãi trong vòng luân chuyển ấy. Do đâu bạn mãi trôi lăn? Do niệm niệm sinh sinh diệt diệt không ngừng trong tâm bạn tạo nên. Khi bạn khởi lên một niệm xấu ác, bạn liền trở thành súc sinh, quỷ đói hay loài ở địa ngục. Nếu tâm niệm bạn hướng về sự thanh tịnh, có thể bạn sẽ tái sinh trong loài người, loài Atula, hoặc sinh trong cõi Trời. Tất cả mọi sự luân chuyển này đều do tâm bạn tạo thành. Vì tâm ta đã tạo nghiệp luân hồi, nên ta nhận lãnh quả báo luân hồi. Không phải nghiệp bắt đầu có khi ta nhận lấy quả báo, mà thực ra, bạn đã tạo nên nhiều vọng tưởng trong quá khứ. Vọng tưởng về cõi Trời, bạn sẽ thọ báocõi Trời, với vọng tưởng về loài Atula, bạn sẽ thọ báo trong loài A-tu-la, với vọng tưởng về loài người, bạn sẽ sinh ra trong loài người, với vọng tưởng về loài súc sinh, bạn sẽ tái sinh trong loài súc sinh; với vọng tưởng về loài quỷ đói, bạn sẽ sinh ra trong loài quỷ đói, với vọng tưởng về địa ngục, bạn sẽ sinh ra trong địa ngục để chịu quả báo. Nếu bạn thường tạo ra nhiều chuyện ác nghiệt, bạn sẽ thọ báo trong 3 đường dữ (ngạ quỷ, súc sinh, địa ngục). Nếu bạn thường gieo trồng nhiều công đức, phước thiện, thì bạn sẽ thăng hoa trong 3 nẻo đường lành (cõi người, cõi trời, cõi Atula). Đây chỉ là giải thích tổng quát. nếu muốn giải thích tường tận, sợ chúng ta không có đủ thời gian. Cho nên, thế giới này là do vọng tưởng của chúng sinh tạo thành. Nếu không ai có chút xíu vọng tưởng nào, thế giới này sẽ là không.

Chúng sinh đều không hiểu nổi pháp chân không thực tướng, pháp chân như thực tướng, pháp chân không diệu hữu, tất cả đều được gọi làchân thực Pháp. Pháp chân không diệu hữu chỉ là cái O mà tôi đề cập nãy giờ. Cõi đất trời rộng lớn này đều được xuất sinh từ O, cho đến thế giới bao la vô tận này cũng thế, rồi vô lượng chúng hữu tình và mọi vạn tượng khác cũng thế. Bởi vì O không rơi vào trong phạm trù của các con số, nó cũng không nằm trong các con số, nó vượt trên mọi số lượng và sự tính toán. Nó vô thủy vô chung, chẳng trong chẳng ngoài, không lớn không nhỏ. "Khi phóng ra nó trùm 6 hướng. Khi thu vào nó ẩn tàng trong vi mật", phóng chi tắc di lục hợĩp, quyện chi thối tàng ư mật. Chân thật Pháp cũng chính là pháp Chân Không Diệu Hữu. Chân không mà chẳng không. Sao vậy ? Vì nó chứa đựng Diệu Hữu. Diệu Hữu nhưng không phải là có. Vì sao? Vì nó bao hàm chân không. Nên nói :"Chân không chẳng ngăn ngại Diệu Hữu, Diệu Hữu chẳng cản trở chân không." Đạo lý này giải quyết được vấn nạn đàn ông có trước hay đàn bà có trước. Hóa giải luôn vấn đề gà có trước hay trứng có trước. O này có thể hóa giải mọi vấn đề. Sao vậy ? Vì O tức Chân Không. Chân Không có thể hiển bày Diệu Hữu, có thể hiển bày vạn pháp. Nhưng Diệu Hữu chẳng tách rời Chân Không. Khi chưa ngộ được pháp truyền tâm ấn của chư Phật thì khó hiểu được nổi cảnh giới này. Nếu sáng tỏ được pháp môn lấy tâm ấn tâm của chư Phật , thì bạn sẽ hiểu được đạo lý này. Do vậy, nên nói : "Bất liễu chân thật Pháp," không hiểu đặng Pháp chân thực.

Chúng sinh đều đầu gắn thêm đầu, đều cỡi trâu mà tìm trâu, đều hướng ngoại truy cầu, không biết cách tự quay trở lại tìm thấy ngay nơi mình (hồi quang phản chiếu). Pháp chân thật vốn hằng có đầy đủ trong Tự Tánh. Ta không cần phải hướng ra ngoài tìm cầu. Nếu bạn cố hướng ra ngoài tìm cầu, dù có trải qua tám chục ngàn đại kiếp vẫn không thấy được. Tuy vậy, nếu bạn quay trở lại tự soi sáng chính mình, sẽ nhận ra ngay tức khắc . Nên nói: "khổ hải vô biên, hồi đầu thị ngạn", biển khổ mênh mông, quay đầu là bờ. Cũng tức là: khi bạn tìm kiếm bên ngoài, ấy chính là biển khổ mênh mông, khi bạn hướng vào trong, dụng công nơi tự tánh, đó chính là quay đầu liền thấy bờ.

Chúng ta điên điên đảo đảo, từ sáng đến chiều, truy đuổi vọng duyên, trôi theo sáu căn sáu trần, không hiểu được Pháp chân thật. Đức Phậtcõi Thường Tịch Quang ngồi kiết già nhập định. Ah! Tuy ở trong định, nhưng muốn chạy đến thế gian này. Vì sao? Bởi vì các Ngài thấy chúng sinh chúng ta quá ngu si, quá thảm hại. Chúng sinh đã bỏ quên mất bản tánh chân thật của mình, mà đuổi theo vọng tưởng. Chúng ta không biết cách từ bỏ vô minhquay trở lại với tánh giác, không biết cách từ bỏ vọng tưởng mê lầm trở về với bản tánh chân thật; chẳng biết cách mượn cái giả để tập tính chân thường; chẳng biết cách quay lại soi sáng nội tâm. Chúng ta thật đáng thương xót. Do vậy, chư Phật ở trong đại định thường khởi tâm Đại từthị hiện đến thế gian này để chỉ rõ mê tâm cho chúng ta. Tuy vậy, ta mãi chìm đắm trong vọng tưởng, mãi truy cầu vọng duyên mà không nhận ra Pháp chân thực này. Đức Phật càng chỉ bày, chúng ta càng quay lưng với Ngài. Đức Phật lắc đầu thất vọng, Chúng ta đã phụ lòng Đức Phật. Chúng ta sẽ ra sao nếu chúng ta cứ mãi phụ lòng Ngài ? Thế thì bạn sẽ trở về lại với chiùnh mình, khi bạn thực hành như thế. Đức Phật sẽ hiện hữu, ngay trước mặt bạn để dạy bảo và hóa đôâĩ cho bạn. Do đó mới thực là: "Chư Phật hiện hữu ở thế gian".

Pháp chân thực này không thể bị biến hoại bởi hàng ngoại đạo. Nếu bạn minh bạch được pháp chân thực, hiểu rõ rằng pháp ấy bao hàm vạn vật đến tận hư không, khắp pháp giới, Cõi Phật, Cõi Ma, Cõi Trời, Thiên Ma ngoại đạo đều bao hàm trong pháp chân thật này, chẳng có vật gì ở ngoài pháp ấy. Do đó ngay đến thiên ma ngoại đạo cũng đều sẽ phải tùy thuận với chính pháp. Sao vậy ? Vì chúng không thể phá hoại chính pháp được. Chánh pháp không thể bị hủy hoại bởi bất kỳ thế lực nào cả. Nếu Pháp bị phá hủy, đó không phải là pháp chân thật. Pháp chân thật không thể bị phá hoại được.

Tự tánh, sáng suốt rộng lớn của chúng ta chính là O này. Khi bạn tu hành được viên mãn rồi, kho tàng sáng suốt rộng lớn này sẽ xuất hiện, năng lực tự tạiđại từ kho tàng sáng suốt rộng lớn ấy sẽ xuất hiện. Kho tàng rộng lớn sáng suốt ấy trùm khắp pháp giới, rộng lớn như hư không. Do vậy, Đức Phật đến thế gian này để chỉ bày cho chúng sinh pháp môn liễu sinh thoát tử, pháp môn quay lại quán chiếu tự tâm mình. Pháp môn quay lại với nguồn tâm gốc tánh của mình. Trí tuẹâ sáng suốt vĩ đại của bạn sẽ chuyển hóa trọn vẹn mọi vô minh và hiện bày pháp thân chân thật vốn có trong chính mình.

Nếu các bạn không tin tôi nói, hãy thực hành thử xem. Khi cơ duyên đã chín muồi, bạn sẽ không có cách gì không tin. Dù không muốn tin, bạn cũng sẽ tin. Bởi vì nó là như vậy, bạn có cách gì không thể không tin không? Kho tàng sáng suốt rộng lớn này vốn là của bạn, chẳng có ai đem đến cho bạn cả. Cũng chẳng phải Đức Phật mang đến cho bạn đâu. Trong bạn vốn đã có đầy đủ từ lâu rồi!

Khai thị của Hòa thượng TUYÊN HÓA

(http://www.dharmasite.net)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(Xem: 173)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 203)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 225)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 291)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 206)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 255)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 355)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 317)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 304)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 383)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 615)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 477)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 484)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 582)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 754)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 839)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 858)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 845)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 737)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 712)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 715)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 815)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 835)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 942)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 718)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 618)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 715)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 827)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 718)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 709)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 825)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 852)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 827)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 864)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 902)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 887)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1087)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 953)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1676)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1066)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1211)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 956)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1215)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1117)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1124)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1281)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1562)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2037)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1097)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1354)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1098)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 947)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1065)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1100)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1536)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1288)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1294)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1027)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant