Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mưa Nắng Vô ThườngNăng Lực Của Sự Thể Nhập Chân Thường

10 Tháng Bảy 201608:03(Xem: 7456)
Mưa Nắng Vô Thường Và Năng Lực Của Sự Thể Nhập Chân Thường

MƯA NẮNG VÔ THƯỜNG
NĂNG LỰC CỦA SỰ THỂ NHẬP CHÂN THƯỜNG

Thích Nữ Giác Anh

Mưa Nắng Vô Thường Và Năng Lực Của Sự Thể Nhập Chân Thường

 

Trời mưa, trời nắng là chuyện bình thường. Thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa, không thể nào bầu trời không mưa hay không nắng lâu được. Nhưng con người thì tùy hoàn cảnh mà lúc thì trông cho trời nắng, lúc thì muốn trời mưa. Khổ nổi, trời đôi khi cũng khó chìu lòng người. Vì chìu lòng người quả thật khó quá…

Nhưng rất may, cho dù thời tiết thế nào, dù hoàn cảnh thế nào, thì những con ngườinăng lực dũng mãnh cũng không lấy đó làm chướng ngại. Mùa Kiết Đông lần thứ 17 của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi – Tân Tây Lan năm nay được quay trở về ngôi già lam Quảng Đức, thời tiết mùa đông Melbourne giá buốt, suốt mấy ngày bầu trời như không thấy bóng mây, có hôm còn mưa tầm tã. Thời tiết hoàn cảnh như thế, nhưng hơn 70 chư tôn Thiền Đức và gần 120 vị Phật tử tùng hạ an cư đều thấy ấm lòng, như cùng hòa vào niềm vui thắp sáng ngọn đèn giải thoát.

Trời đất phải luân chuyển, cuộc đời chắc chắn vô thường, cảnh vật chắc chắn phải biến đổi, nhưng lý tưởng của người tu Phật luôn hướng đến một ngày vượt thoát cảnh vô thường, sớm thể nhập Chân Thường, đó mới là đích đến. Cảnh Chân Thườngcảnh giới không còn sinh diệt biến đổi. Cảnh giới đó không do Khát Ái làm Nhân, cảnh giới đó là kết quả của Thanh Tịnh, không phân biệt nhị nguyên đối đãi. Giữ tâm Chân Thường giữa cuộc thế vô thường chính là hữu dư y Niết Bàn của những bậc đã thoát khỏi ràng buộc của Khát ÁiSanh Tử.

Đôi khi căn bệnh tự ngã của con người khiến con người trở nên kiêu ngạo, tự phụ. Nhưng cũng có khi cái ngã đáng ghét đó khiến con người tự ti mặc cảm, không dám tự tin mình có thể vượt qua cái phàm phu của chính mình. Chính vì không tin nên chưa hành, vì chưa hành nên kết quả chưa đến.

Sở dĩ những bậc Thánh đã chứng đạothâm tâm có một niềm tin mãnh liệt vào đích đến giải thoát, tin vào con đường tu chứng và tự tin mạnh mẽ nơi chính mình. Vì Tin nên các Ngài đã biến Niềm Tin thành Hành Động, biến Tâm thành Tướng. Ngạn ngữ Anh có câu “your reality is your mentality” (thực tế của bạn biểu hiện nội tâm của bạn) là thế.  Nhờ Hành nên việc Tu Chứng chỉ còn là vấn đề thời gian sớm hay muộn mà thôi. Tin mạnh, sẽ Hành mạnh và kết quả Tu chứng sẽ sớm. Tin ít, sẽ hành chần chừ, kết quả sẽ lâu lắm.

Sự thành công của con người trên thế gian cũng bắt nguồn từ quy tắc Niềm Tin – Hành Động - Kết Quả này. 20 năm về trước, nói đến computer là cả một khối máy to đùng, đừng nói gì  đến cái điện thoại mà có computer như ngày nay. Steve Jobs là người khởi đầu ý tưởng đem kích thước cái computer kềnh càng đó xuống nhỏ nhất hết mức có thể, không cần Turn On hay Turn Off máy, không cần con mouse để điều khiển, không dây nhợ kết nối, tất cả chỉ gỏn gọn trong cái máy điện thoại nhỏ xíu smart phone bây giờ mà thôi. Ai cũng biết Steve Jobs là cựu giám đốc hãng điện tử Apple nổi tiếng của Mỹ và ai cũng biết ông là người phát minh ra chương trình Norton Commander của 2 thập kỷ trước, lúc đó ai làm quen computer, đều học qua hệ điều hành Norton… Bây giờ cũng chính ông là cha đẻ của Iphone, Ipad, Icloud nổi tiếng lừng lẫy… Thời gian 20 năm để làm ra một kết quả, mà kết quả đó chỉ khởi đầu bằng một ý tưởng đi chung với một niềm tin mãnh liệt là sẽ làm được và sẽ thành công của Steve. Cùng thời với Steve, cũng có biết bao nhiêu ý tưởng hay mới lạ, có ý tưởng là khó, nhưng chưa đủ, cần phảiniềm tin vào thành công. Niềm tin cho mình sức mạnhnăng lực. Niềm tin cho mình sự chịu đựng gian nan, cho hy vọng để vượt qua vấp ngã thất bại. Niềm tin giúp vượt qua con người nhỏ bé của chính mình.

Mỗi lần chúc nguyện cho một người sắp đi xa, hay sắp làm việc lớn, người ta đều chúc nguyện cho vị ấy “chân cứng đá mềm”. Mặc dù con đường của bạn phía trước còn xa, nhưng tôi thương chúc bạn chân cứng đá mềm! Câu nói ấy nghe thật quen và cũng thật gần gũi, chân tình làm sao. Mặc dù hình ảnh chân cứng đá mềm chỉ là tượng trưng thôi, làm sao bàn chân con người bằng xương bằng thịt mềm mại là thế mà có thể sánh với đất đá cứng rắn được. Đá vốn cứng, chân vốn mềm. Thế đó, nhưng con người vẫn chúc, vẫn mong chân cứng đá mềm và con người vẫn thắng, vẫn vượt qua cái gian nan, cái cứng rắn đau khổ của hoàn cảnh, để đi đến thành công.

Chư Tổ Tịnh Tông dạy tư lương của người tu Niệm Phật cầu vãng sanh là Tín - Hạnh - Nguyện. Tín - Hạnh - Nguyện là Tín, niềm tin vào cảnh giới Phật, Hạnh là hành trì pháp niệm Phật và Nguyện là phát nguyện vãng sanh cảnh giới Phật. Còn có chỗ dạy Tín - Nguyện - Hạnh là vì, sau niềm tin phải đến phát nguyện, có phát nguyện mới có hướng đi, sau đó mới hành, tức là công phu hành trì. Phải set-up cái destination chỗ đến trước, rồi mới start to go, rồi mới bắt đầu đi được. Nhưng dầu Tín Hạnh Nguyện hay Tín Nguyện Hạnh thì Tín cũng đi đầu. Niềm tin quan trọng như thế.

Niềm tin mãnh liệt vào con đường tu chứng khiến tâm tự động phát khởi tất cả những thiện tâm cần thiết để mở cánh cửa đến cảnh giới Tu Chứng. Niềm tin giải thoát như nam châm, hút tất cả những thiện pháp giải thoát đến với nó. Người ta hay nói Likes attract likes, cái gì giống nhau sẽ hút lại với nhau. Trong Kinh Hoa Nghiêm, Phật dạy: Tín vi công đức mẫu, niềm tin là mẹ các công đức. Vì Tin con đường giải thoát nên mới chân thành chấp nhận lời Phật dạy hướng đến giải thoát.

Khi xưa, 5 vị đạoKiều Trần Như, lúc đầu không tin nên chưa nhận được Phật Pháp. Sau khi đức tướng Như Lai đã nhiếp thọ các Ngài rồi, các Ngài mới phát khởi niềm tin mãnh liệt vào đạo giải thoát. Đức Thế Tôn chỉ vừa giảng bài pháp đầu tiên là Kinh Chuyển Pháp Luân, thì tôn giả A Nhã Kiều Trần Như đã chứng quả vị A La Hán. Sau đó, trong vòng một tuần, đức Thế Tôn giảng tiếp Kinh Vô Ngã Tướng, 4 vị còn lại lần lượt đều chứng quả. Như thế chỉ trong vòng thời gian rất ngắn, 5 vị Sa Môn đầu tiên đều đã hoàn tất những việc cần làm. Phật dạy đó là cảnh giới của Chân Thường, cảnh giới của việc cần làm đã làm xong, không còn theo nghiệp tái sinh trở lại nữa.

Trong Kinh Chuyển Pháp Luân, Phật dạy rõ chân lý Diệt, đó là cảnh giới của không còn bóng dáng sinh tử luân hồi. Cảnh giới đó không còn mong muốn, không còn tham ái, không có Dục Lậu, Hữu LậuVô minh lậu. Phật dạy chân lý Diệt cần phải được liễu tri, được phát triển và được chứng ngộ. Mỗi thánh đế đều cần phải qua ba giai tầng Liễu Tri – Phát Triển và Chứng Ngộ. Sau khi Phật thuyết bản Kinh đầu tiên này xong, những bậc thánh đệ tử đầu tiên đã chứng quả, thế gian thực sự đã có 3 ngôi báu: Phật Bảo, Pháp BảoTăng Bảo. Ngay lúc ấy một hào quang sáng rỡ mạnh mẽ chiếu sáng thế gian, mười ngàn thế giới chấn động, lung lay mạnh mẽ.

Chỉ từ một niềm tin vào ngày mai không còn đau khổ, mà từ cõi địa ngục của vô lượng kiếp trước, tiền thân Đức Phật đã phát thiện tâmNam mô A Tỳ Địa Ngục, sơ phát thiện tâm, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật” để nay Đức Phật đã thành Phật. Cũng chỉ vì một Niềm Tin vào con đường giải thoát, mà 5 vị sa môn, từ lúc đầu rời bỏ thối chí, mà sau này chứng quả cao nhất chỉ trong bài thuyết pháp đầu tiên. Năng lực niềm tin, đã mở ra năng lực chấp nhận, năng lực hiểu và biết, năng lực liễu tri, đưa đến năng lực phát triển sức liễu tri đó, để cuối cùng chứng quả Niết Bàn Vô sanh Tối Thượng.

Nhờ Tin thiết tha vào giá trị Giải Thoát, nên ai cũng thật tâm chấp nhận Thế giới này là kết nối của Khổ. Dù cuộc sống đang hài lòng hay bất như ý, dù tâm đang vui do ái lạc sinh ra hay đang kẹt trong hoàn cảnh của oán tắng hội, thì ngày nào con người chưa chứng đạo, thì cái vui, cái buồn đó đều sẽ dẫn đến Khổ. Phật dạy đó là cảnh giới của Tù sinh tử, như 4 câu thơ bất hủ của Hòa Thượng Tuệ Sĩ đang trong tù Cộng Sản năm nào:

Thử thực ngục tù phạn
Thượng cúng tối thắng tôn
Thế gian trường huyết hận

Bình bát lệ vô ngôn.

(Cơm này trong tù ngục
Con xin cúng Thế Tôn
Thế gian đầy huyết hận
Lệ rơi, không thành lời)

Quả thật, nếu niềm tin Phật không kiên cố, sẽ không dễ gì xem tài vật, sắc pháp thế gian như bữa cơm trong Tù. Sẽ không thiết tha đau đớn khi chưa chứng đạo. Sẽ không cách nào vượt qua nổi niềm vui của ái dục, sẽ không phát đại Tâm Bồ Đề cầu thành Phật phổ độ chúng sanh. Sẽ bị vô thường mưa nắng làm nhụt chí tiến đạo. Thất bại là chuyện bình thường, nhưng nếu không niềm Tin nữa, thì sau khi thất bại sẽ càng lún sâu hơn. Rất may đệ tử Phật đã hiểu rõ con đường, đã có niềm tin và kết quả Giác Ngộ sẽ không còn xa.

Thời tiết có mưa có nắng. Con người không thay đổi được mưa nắng, nhưng thay đổi được Tâm, thay đổi được cách nhìn, vượt qua được vô thường sinh tử để thể nhập chân thường giải thoát. Mùa Kiết Đông An Cư năm nay, dù mưa nắng thất thường, dù hoàn cảnh giới hạn dù ít hay nhiều của từng tự viện, dù lạnh buốt giữa đông, nhưng niềm Tin hoằng pháp lợi sanh, gìn giữ truyền thống giải thoát từ thời Đức Thế Tôn của chư Tôn Thiền Đức đã thắp sáng ngọn đèn Chánh pháp, lợi lạc rất nhiều hữu tình.

Chúng con xin chấp tay thành kính niệm ân công đức nhị vị Thượng Tọa Hóa Chủ Thích Tâm Phương và TT Thích Nguyên Tạng, đảnh lễ niệm ân chư Tôn Đại Đức Tăng, chư Tôn Đại Đức Ni và toàn thể quí vị đàn việt cư sĩ gần xa, để mùa Kiết Đông năm nay thập phần viên mãn.

Ngưỡng nguyện Tam Bảo thường gia trì đệ tử chúng con, luôn giữ được tâm Chân Thường giữa cái Vô Thường, sớm chứng đạo giải thoát để còn lợi ích chúng sanh, vốn nhiều đời nhiều kiếp làm cha mẹ của chúng con, hiện vẫn còn đau, niềm đau trong sanh tử.

Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật.

Nam mô A Di Đà Phật.

Kỷ niệm ngày thứ ba, kỳ Kiết Đông An Cư - Quảng Đức Melbourne 2016.

TKN Thích Nữ Giác Anh
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1392)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1311)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1369)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1600)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1726)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1685)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1084)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1585)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1570)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1749)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 2023)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1629)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1444)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1450)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1637)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1221)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1342)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1349)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1757)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1715)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3182)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1893)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1437)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1270)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1362)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1477)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1368)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1964)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1743)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1947)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1884)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2459)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1835)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2210)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2326)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2384)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1928)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 2041)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2098)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 2027)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2662)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1995)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1952)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 2003)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1966)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2222)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2377)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 2076)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2187)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1952)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1990)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2493)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2393)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4149)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2557)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3293)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2537)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2105)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1843)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant