Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tâm

30 Tháng Giêng 201711:15(Xem: 9363)
Tâm

TÂM

Thích Viên Thành

Tâm

 

Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,  Nếu nói năng hay hành động, với “tâm” niệm nhiễm ô, khổ não liền theo sau, như xe theo bò kéo vậy. “Tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả. Nếu nói năng hay hành động, với “tâm” niệm thanh tịnh, An lạc liền theo sau, như bóng chẳng rời hình” PC1&2.

Việt Nam ta, trong áng văn bất hủ Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng có thơ về “tâm” rằng: “ Thiện căn ở tại lòng ta, chữ “tâm” kia mới bằng ba chữ tài

Từ Phật, Thánh đến Hiền nhân và ngay cả người đời thường cũng đều biết rằng “Tâm” là quan trọng nhất, tất cả sang hèn, vui buồn, sướng khổ, lên thiên đường, xuống địa ngục…cũng đều do “tâm” nầy tạo ra chứ không ai “ban phước giáng họa” cho ai cả. Do vậy phải lo “Tu Tâm, dưỡng Tánh” là như vậy.

Nhưng “tâm” là ở trong lòng ta, chứ không ở ngoài hay ở đâu cả, muốn Tu là phài quay vào lại bên trong, chứ không tìm kiếm ở bên ngoài, nên Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ dạy cho Thái Tử Trần Khâm câu “phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc” có nghĩa: xem lại chính mình là phận sự chính, không từ nơi khác mà được, rất là chính xác, đúng đạo lý thiền gia. Tu “ngoài tâm” là tu theo ngoại đạo và chỉ là “gãi ngứa ngoài giày” mà thôi.

Người có “tâm” tức là người có “đức”, vì chỉ biết sống vị tha, luôn nghĩ, nói tốt và chuyên làm những việc chăm lo an vui hạnh phúc cho người, hơn là lo cho bản thân mình. Phật nhìn đâu cũng thấy Phật, người tốt nhìn cái gì cũng thấy tốt, (Thiền thoại Tô Đông Pha thấy Phật Ấn như đống phân bò) đã nói rõ lên điều ấy, do vậy khi ta thấy người có điều xấu nầy hay điều sai khác, rồi sanh phiền não, phê phán, trách móc, khen chê để rồi tạo nghiệp, bất kính, xem thường, mạ lị…Hiểu được điều nầy, khi ta thấy một ai có điều gì xấu, không như ý thì hãy quán chiếu lại “tâm” mình ngay, vì “ Người vui cảnh chẳng đeo sầu, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, “tâm” ta đang có vấn đề, nên “nhìn gà hóa cuốc”, chứ “Tất cả chúng sanh là Phật sẽ thành” kia mà! Có quán chiếu được như vậy là ta đang tu, vừa hoàn thiện được bản thân, vừa không tạo thêm nghiệp chướng, để khỏi phải trả quả về sau, hiện tại an vui, tương lai được sanh về nơi lạc cảnh.

Phật dạy: “ Khi chưa chứng A La Hán, thì chưa thể tin “tâm” ta được”, “tâm” của chúng sanh là “tâm viên, ý mãvô thường, thay đỗi, chạy nhảy lung tung và cũng dễ bị nhiễm ô, như truyện “Cửa Tùng Đôi Cánh Gài” đã nói rõ lên điều ấy. Đừng ngạo mạn xem ta là “Thánh”, đang xuống trần hành hiệp giang hồ, diệt bạo, trừ gian, rồi gặp ai cũng tưởng “ma quỷ” sẵn sàng rút kiếm diệt trừ, để rồi cuối cùng quay về với “nguồn cội”, với“sư phụ” và nhìn lại “kiếng chiếu yêu” thì thấy mình đã “mọc nanh” ra, khi nào không biết. “Tâm” dẫn dắt ta đi khắp sáu nẻo luân hồi! “Tâm” cùa chúng ta là như vậy đấy, nên cần phải lo TU cái TÂM lăng xăng, lộn xộn nầy cho được yên tịnh, chứ không tu ở đâu xa “chế tâm nhứt xứ vô sự bất biện” giữ tâm một chỗ, việc gì cũng được hanh thông, là vậy!

Đừng tưởng rằng, đi chùa nhiều, tu lâu năm, tụng, học cho nhiều kinh điển, đóng góp xây dựng được nhiều “chùa to, Phật lớn”, nổi danh với âm thanh, sắc tướng… mà vẫn còn tham, sân, si, “tâm” thiếu từ bi hỷ xả, không bao dung, rộng lượng, chuyên nhìn ra ngoài để thấy lỗi người, rồi sanh phiền não, thì chỉ là “tu hình tướng, tu danh, tu lợi” mà thôi, không quán chiếu để chuyển hóa nội tâmnghiệp lực của mình, thì làm sao độ được ai? Như vậy càng đi chùa, công quả nhiều, càng tu lâu, để rồi lớn “bản ngã” xem ta là nhất, ai hơn cũng không muốn và tìm cách trù dập, hãm hại là đã tu sai rồi, thì càng thêm tội lỗiuổng công, phí sức, thật đáng thương hại thế nào!

Khi Đức Phật còn tại thế, hoàng hậu nước Kosala tên Mallika có hỏi Đức Phật về nguyên nhân nào khiến con người sinh ra đẹp xấu khác nhau. Đức Phật trả lời rằng: “Người có “tâm” nhu hòa, nhẫn nhục sẽ được đẹp đẽ và kẻ có “tâm” sân hận sẽ chịu xấu xí”. Ngài cũng đã có dạy: “Tội từ “tâm” khởi, đem “tâm” sám, “tâm” được tịnh rồi, tội liền tiêu, tội tiêu “tâm” tịnh, thảy đều không, thế mới thật là chơn sám hối” Người có ‘tâm thành’ hay mang hoa cúng Phật, ít chê bai, thường hay khen ngợi điều tốt của mọi người, cũng sẽ thành tựu được quả báo tốt, có nhan sắc đẹp đẽ sau nầy. Trong cuốn sách Nhân tướng học, tác giả Hy Trương đã kết luận: “Tướng tùy “tâm” sinh, tướng tùy “tâm” diệt”, cũng đã nói lên, tất cả mọi sự cũng từ nơi “tâm”. Nếu “tâm” chúng ta thường xuyên biết giúp đỡ mọi người, sống vị tha, bao dung, tùy hỷ, để có được tinh thần “vô ngã” siêng làm lợi ích cho người, ít phiền não, nóng giận, sân hận, thì tướng mạo và số phận của chúng ta sẽ thay đổi một cách tốt đẹp.

Do vậy, là người con Phật, phải khiêm cung, có “tâm tốt” để có suy nghĩ, cái thấy tốt, lời nói hay và hành động đẹp, từ đó hiểu, thương, tôn trọng và biết chia sẻ lẫn nhau! “Đời ngắn ngủi, thương nhau còn chưa đủ, bận lòng chi, những thù hận vu vơ, vết trầy nhẹ, đừng làm thân đau nhức,“tâm” yêu thương là biển rộng vô bờ !” Phật dạy: “Tâm bình thế giời bình, tâm tịnh quốc độ tịnh” thật quá siêu việt, tuyệt vời.

Có “tâm tốt” thấy mọi điều đều tốt
Chuyện của người đừng để ý làm chi  
Việc ở ngoài toàn những chuyện thị phi    
“Quán chiếu tâm” chính là bổn phận sự

Chùa Pháp Hoa – Nam Úc, những ngày mừng Xuân Đinh Dậu – 2017  
Thích Viên Thành

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 102)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 127)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 198)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 135)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 188)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 170)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 199)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 227)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 310)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 548)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 412)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 407)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 499)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 687)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 741)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 771)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 771)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 678)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 633)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 651)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 759)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 780)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 875)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 634)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 554)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 643)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 769)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 648)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 649)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 750)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 763)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 760)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 801)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 842)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 823)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1018)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 882)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1539)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 996)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1150)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 891)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1136)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1055)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1051)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1207)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1482)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1836)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1027)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1291)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1034)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 890)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1012)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1034)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1452)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1203)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1230)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 974)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1114)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1579)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant