Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Truy Nguyên Quan Điểm Về Đức Phật Của Đại Chúng Bộ

01 Tháng Tám 201807:19(Xem: 6486)
Truy Nguyên Quan Điểm Về Đức Phật Của Đại Chúng Bộ

Truy Nguyên Quan Điểm Về Đức Phật Của Đại Chúng Bộ 

Quảng Hưng – Nguyên Hiệp

Truy Nguyên Quan Điểm Về Đức Phật Của Đại Chúng Bộ

 

Nhiều học giả phân vân là làm thế nào và tại sao những nhà Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika) đã hình thành nên khái niệm về một Đức Phật siêu việt hai hoặc ba trăm năm sau Đức Phật Niết-bàn, trong khi những nhà Thượng tọa bộ (Sthaviravādin) vẫn giữ khái niệm về một Đức Phật con người, mặc dù họ quy cho Ngài nhiều đặc tính siêu nhiên. Vậy những gì là cơ sở mà những nhà Đại chúng bộ đã căn cứ cho việc hình thành nên khái niệm về mộtĐức Phật như vậy? Đây là chủ đề nghiên cứu của bài viết này.

Theo Thế Hữu (Vasumitra),1 triết học của Đại chúng bộ đặt cơ sở nhiều nơi niềm tin hơn là nơi lý trí vàchấp nhận bất kỳ những gì Đức Phật nói, hay cụ thể hơn, bất kỳ những gì được dạy trong các Nikāya và A-hàm. Do đó, họ đã phát triển khái niệm Đức Phật siêu việt/thế (lokottara) được dựa trên những đặc điểm siêu nhiên của Đức Phậtđược ghi lại trong những kinh điển Phật giáo sơ kỳ.2 

Nơi trường hợp của Đại chúng bộ, không giống trường hợp của Nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin), không có nhiều tài liệu còn lại để trên cơ sở đó ta có thể thực hiện một nghiên cứu bao quát quan niệm của họ về Đức Phật. Chỉ có ba bản văn hiện còn, đó là Đại sự (Mahāvastu), Nội tạng bách bảo kinh (Lokānuvartanasutra) và bộ luận của Thế Hữu mà nó bàn về những học thuyết của nhữngtông phái Phật giáo Ấn Độ sơ kỳ (Samayabhedavyūhacakra/ Dị bộ tông luân luận, T 2031). Các học giả xác định hai tác phẩm đầu thuộc về Đại chúng bộ, hoặc chi phái phát sinh từ nó, Lokottaravāda/Thuyết xuất thế bộ (Harrison, 1982: 213). Khái niệm Đức Phật của Đại chúng bộ như được trình bày trong những tác phẩm này có ý nghĩa đáng kểĐức Phật được lý tưởng hóa hoàn toàn đến độ Đức Phật lịch sử chỉ được xem như một sự biểu hiện, và khía cạnh toàn năng và toàn trí của Đức Phật được nhấn mạnh

Vì những nhà Đại chúng bộ là những Phật tử sùng đạo, nên họ tin vào mọi lời nói của Đức Phật vàgiải thích những đoạn văn liên quan đến những điều vi diệu ở trong những bản kinh sơ kỳ theo một cách thức lý tưởng hóa. Có một trường hợp thú vị ở trong A-tỳ-đạt-ma Đại tỳ-bà-sa luận (Abhidharmamahāvibhāṣā) mà nó cho thấy rõ cách những nhà Đại chúng bộ đã giải thích những đoạn văn như vậy ở trong những kinh sơ kỳ. Trong cả Tạp A-hàm (Saṃyuktāgama) và Tăng chi bộ(Aṅguttaranikāya), có một đoạn khẳng định rằng mặc dù Như Lai (Tathagata) sinh ở trong đời và sống ở trong đời, Ngài không bị những pháp thế gian làm ô nhiễm (T 99, tr. 28b12; Aṅguttaranikāya, II, 37, và Saṃyuttanikāya, III, 140). Những nhà Đại chúng bộ hiểu và giải thíchđoạn văn này theo nghĩa đen, cho rằng Đức Phật thanh tịnh và không có bất kỳ sự ô nhiễm nào (āsrava dharma), và rằng điều này bao gồm rūpakāya, thân thể vật lý của Ngài (T1545, tr. 229a, 39lc-392a, 871c). Tuy nhiên, những nhà Nhất thiết hữu bộ đã giải thích đoạn văn này theo cách khác. Theo họ, câu “Như Lai sinh trong đời và sống ở trong đời” có nghĩa rằng sắc thân (rūpakāya)xuất hiện trong đời là bất tịnh, trong khi “Ngài không bị cuộc đời làm cho ô nhiễm” đề cập đến pháp thân (dharmakāya) thanh tịnh (T 1545, tr.229a, 39lc-392a, 871c). Đọc đoạn văn này đúng theo ngữ cảnh, chúng ta có thể hiểu rằng Đức Phật tuyên bố điều này bởi vì Ngài đã đoạn trừ các āsrava,nguyên nhân của tái sanh ở nơi cuộc đời này (T 99, tr. 28b12). Do đó, Ngài tuyên bố rằng Như Laithanh tịnh với ngụ ý đạo đức, không phải mang nghĩa vật lý. Trong Vibhāṣā, ta thấy chính đoạn văn này xuất hiện ba lần, và quan điểm kết nối với luận cứ của Đại chúng bộ. Đây là một mẫu lý luận điển hình của Đại chúng bộ về các kinh sơ kỳ.3 Có nhiều chứng cứ được tìm thấy trong những kinh sơ kỳ ủng hộ sự khẳng định rằng những nhà Đại chúng bộ đã giải thích những đoạn kinh theo một cách thức lý tưởng hóa. 

Bằng chứng nổi bật nhất về Đức Phật theo quan điểm của Đại chúng bộ là kinh Hy hữu vị tằng hữu pháp (Acchariyābbhūtasutra) thuộc Trung bộ (Majjhimanikāya), mà nó cũng được tìm thấy trong Trung A-hàm Hán ngữ (Madhyamāgama) với một tiêu đề tương tự, nhưng với những miêu tả thêm về các điều vi diệu hy hữuBản kinh Pāli miêu tả về 20 điều hy hữu mà chúng xảy ra giữa việcgiáng hạ của Bồ-tát từ cõi trời Đâu Suất (Tuṣita) và thời điểm Đản sanh của Ngài nơi trần thế, trong khi bản Hán ngữ đề cập 23 điều hy hữu, và chỉ mười trong chúng xảy ra sau việc Đản sanh củaĐức Phật (Majjhimanikāya, III,118-124; T 26, tr. 469c-471c). Những thuật ngữ được sử dụng đểmiêu tả Đức Phật trong hai phiên bản cũng khác nhau. Kinh Pāli sử dụng thuật ngữ Bồ-tát (Bodhisattva), ngụ ý rằng Ngài chưa giác ngộ, trong khi phiên bản Hán ngữ sử dụng thuật ngữ “Thế Tôn” (Bhagavat), có lẽ ngụ ý rằng sự xuất hiện của Ngài nơi quả đất chỉ là một sự thị hiện. Nhữngmiêu tả liên quan đến sự Đản sanh của Đức Phật thì giống nhau trong cả hai phiên bản mặc dùbản kinh được truyền thừa ở nơi hai truyền thống khác nhau, đó là Theravāda và Đại thừa. Sự việc này chính nó cho thấy sự cổ xưa của việc miêu tả này. 

Câu chuyền về sự Đản sanh của Đức Phật trong những bản kinh trên là như sau: Từ cung trời Đâu Suất, Bồ-tát giáng nhập vào thai mẹ và ở đó đúng 10 tháng mà không bị những thứ bất tịnh làm ô nhiễmNgay sau khi sinh, Ngài bước đi bảy bước và tuyên bố rằng Ngài là bậc cao quý nhất ở trong cõi đời và rằng đây là lần sinh cuối cùng của Ngài. Một ánh sáng vô lượng soi chiếu thế giới, chiếu sáng đến chỗ tối tăm nhất, nơi ánh sáng mặt trời và mặt trăng không thể xuyên qua. Mười ngàn thế giới rung động. Nơi toàn bộ tiến trình, Đức Phật được miêu tả là nhận biết rõ những gì đang xảy ra. Việc miêu tả câu chuyện này cho thấy rõ rằng Đức Phật được xem như một Đấng siêu việt

Nửa phần đầu của kinh Nālaka (Nālakasutta) thuộc Kinh Tập (Suttanipāta) có lẽ là một tiền thâncủa câu chuyện này và đáp ứng như một cơ sở cho những quan điểm được phát triển trong Hy hữu vị tằng hữu pháp, vì hầu hết các học giả cho rằng Kinh Tập chứa đựng một số những bản kinhsớm nhất.4 Nơi phần mở đầu, kinh Nālaka đề cập rằng vào lúc Đản sanh của Đức Phậtchư thiênhoan hỷ và nhảy múa vui mừng ở cõi trời (Kinh Tập, các kệ 679-698). Khi biết điều này, tiên nhânAsita (A-tư-đà) đã hỏi chư thiên về lý do họ hoan hỷ và họ đáp rằng có một bậc vô song, đấng cao quý nhất, đã hạ sinh ở vương quốc của những người Thích Ca (Śākya), tại vườn Lâm-tỳ-ni (Lumibi). Ngài sẽ chuyển bánh xe Pháp vì lợi ích và hạnh phúc của chúng sinh

Trong kinh Nālaka, có một đoạn quan trọng nói rằng sự Đản sanh của Đức Phật ở cõi đời là vì mục đích giải thoát chúng sanh. Nếu truy nguyên thêm các nguồn của đoạn kinh ở trên, chúng ta có thể thấy nó ở trong cả bản dịch Hán ngữ Tạp A-hàm (T 99, tr. 95c, 199c) và Tăng chi bộ Pāli (V, 144). Ở một đoạn, Đức Phật đã dạy thế này: “Này các Tỷ-kheo, nếu không có ba điều này có mặt nơi cõi đời, Như Lai, bậc A-la-hán Chánh đẳng giác, sẽ không xuất hiện nơi cõi đời; cũng không có pháp và luật được thuyết bởi Như Lai soi sáng nơi cõi đời. Ba điều gì? Sinh, suy yếu và chết… Nhưng bởi vì ba điều này có mặt, do đó, Như Lai, bậc A-la-hán Chánh đẳng giácxuất hiện nơi cõi đời, và pháp-luật được tuyên thuyết bởi Như Lai được soi sáng nơi cõi đời.”5 Đoạn kinh này cho thấy rằng sự giáng sanh của Đức Phật ở nơi cõi đời không phải ngẫu nhiên như sự hạ sinh của những chúng sanh bình thường do nghiệp dẫn dắt, mà có một mục đích rõ ràng là làm lợi ích những chúng sanhđang khổ đau. Điều này có ý nghĩa bởi vì lời khẳng định được cho là do Đức Phật nói; trong khi cả nơi kinh Nālaka và Hy hữu vị tằng hữu pháp, lời tuyên bố được cho là do chư thiên và Ananda nói. Kinh Nālaka có lẽ đã lấy quan niệm về sự Đản sanh của Đức Phật từ đoạn kinh này trong Tăng chi bộ hoặc Tạp A-hàm. 

Việc miêu tả đơn giản này về sự Đản sanh của Đức Phật ở trong kinh Nālaka chứa đựng nhữngquan điểm cơ bản mà chúng là nguồn cho việc biên soạn kinh Hy hữu vị tằng hữu pháp, ở đó sự Đản sanh của Đức Phật ở cõi đời là một sự kiện vi diệu với mục đích cụ thể là giải thoát chúngsanh. Kinh Hy hữu vị tằng hữu pháp trình bày một hình thức phát triển cao trong việc miêu tả sự Đản sinh của Đức Phật, với những miêu tả chi tiết về điều đó như một sự kiện vi diệu. Sự mô tả này được áp dụng thêm cho tất cả sáu vị Phật quá khứ khác ở trong kinh Đại thành tựu(Mahāpadānasutta) thuộc Trường bộ (Dīghanikāya, II.12), vì tất cả những điều vi diệu về việc Đản sanh của Đức Phật Gautama ở trong kinh Hy hữu vị tằng hữu pháp được tìm thấy trong bản kinhtrước đó theo đúng dạng thức và thể loại. Câu chuyện về Bồ-tát từ cõi trời Đâu Suất giáng hạ vào thai mẹ đã trở thành một thể thức ở trong kinh Đại thành tựuBản kinh này giải thích rằng chínhthuận theo bản chất của các pháp (dhammata) mà tất cả chư Phật nơi sự sanh sau cùng của họ đã từ cõi trời Đâu Suất giáng hạ vào thai mẹ. Tất cả những điều hy hữu khác đi cùng với sự Đản sanh của Phật cũng được nói là thuận theo bản chất của các pháp. 

Việc phân tích này về sự Đản sanh của Đức Phật cho thấy rằng vấn đề này được phát triển ít nhấtqua bốn giai đoạn. Đoạn văn được trích ở trên từ Tạp A-hàm và Tăng chi bộ không đưa ra bất kỳ điều gì huyền bí về sự xuất hiện của Như Lai ở nơi cõi đời, nhưng nó cung cấp nguồn tư tưởngcho những phát triển về sau. Đây là giai đoạn đầu của việc mô tả về Đản sanh. Kinh Nālaka có lẽ trình bày giai đoạn thứ hai của việc miêu tả về Đản sanh. Ở đây sự Đản sanh của Đức Phật đã được xem như một sự kiện vi diệu hy hữuHình thức mô tả này được phát triển đầy đủ ở trong Hy hữu vị tằng hữu pháp, mà nó chứa đựng toàn bộ tình tiết về sự Đản sanh của Đức Phật Gautama, với đầy đủ các điều vi diệu hy hữu. Điều này tôi xem là giai đoạn thứ ba. Ở giai đoạn thứ tư, câu chuyện Đản sanh của Đức Phật cuối cùng trở thành một thuyết ở trong kinh Đại thành tựu, rồi sau đó được áp dụng cho tất cả các vị Phật khác. Tất cả các truyền thống Phật giáo đều đưa thuyết này vào trong nguồn văn học của họ, và cho đến hiện tại, cả Đại thừa và Theravāda đều chấp nhận nó. Như vậy, những phát triển này về thuyết Đản sanh của Đức Phật hẳn xảy ra trước khiPhật giáo phân thành nhiều tông phái khác nhau. Như vậy rõ ràng rằng, ở Phật giáo sơ kỳ, nhữngtín đồ đã lý tưởng hóa Đức Phật và xem sự Đản sanh của Ngài ở nơi cõi đời không như một sự kiện bình thường, mà như một sự kiện hy hữu (adbhuta). Mục đích Đản sanh của Ngài thì rõ ràng, đó là “vì lợi ích và hạnh phúc của tất cả chúng sanh”. Tuy nhiên, trước khi giác ngộ, theo Phật giáoTheravāda, Ngài là một vị Bồ-tát. 
Như vậy, từ những quan điểm và lý thuyết như vậy được tìm thấy trong những kinh điển sơ kỳ mà những nhà Đại chúng bộ khẳng định rằng tất cả chư Phật là những Đấng siêu thế (lokottara) (Masuda, [tr.] 1922: 18). Kinh Hy hữu vị tằng hữu pháp đưa ra một vài phát biểu quan trọng mà chúng đáp ứng như những cơ sở cho quan điểm về một Đức Phật siêu thế của những nhà Đại chúng bộChúng ta so sánh thêm những phát biểu này với những đoạn được tìm thấy trong Nội tạng bách bảo kinh (Lokānuvartanāsūtra), Đại sự (Mahāvastu) và bộ luận của Thế Hữu(Vasumutra). 

Theo kinh Hy hữu vị tằng hữu pháp, thứ nhất, Bồ-tát biết rõ tất cả những sự kiện xảy ra vào lúc Ngài đản sanh. Thứ hai, Bồ-tát không bị những thứ bất tịnh làm nhiễm ô khi Ngài sinh ra. Thứ ba, mẹ của Ngài có thể nhìn thấy Ngài ở trong bào thai giống như nhìn thấy một viên ngọc nơi tay của bà. Nội tạng bách bảo kinh nói rằng Bồ-tát không sinh từ sự ân ái của cha và mẹ; thân của Ngài được sinh ra một cách kỳ diệu (T 807, tr.75lc). Thứ tư, mẹ của Bồ-tát hạ sanh trong khi đang đứng. Theo Thế Hữu, những nhà Đại chúng bộ khẳng định rằng tất cả chư Bồ-tát được sinh ra từ hông bên phải. Thứ năm, chư Bồ-tát bước đi bảy bước và nói ngay sau khi sinh. Nội tạng bách bảo kinh nói một cách rõ ràng rằng chính vì thuận theo cõi đời mà Đức Phật đã thể hiện như vậy khi Đản sinh và thốt lên những lời: “Nơi thế giới này không ai vượt thắng Ta! Ta sẽ giáo hóa nhân loài khắp mười phương!” (T 807, tr.75lc). Điều này cho thấy rằng những tín đồ cho rằng những sự kiện này không thể xảy ra đối với một người bình thường, mà chỉ xảy ra với một người đã giác ngộ và thể hiện chúng có mục đích

Có thể rằng từ những quan điểm này mà những người biên soạn cả Đại sự (I, 167-70) và Nội tạng bách bảo kinh (T 807, tr. 75lc-752a) giảng giải rằng “Mỗi hành động của Đức Phật nơi cõi đời là một sự thị hiện vì lợi ích và hạnh phúc của con người”. Đức Phật thuận theo những thể thức của cuộc đời cũng như theo nhưng thể thức siêu thế. Ngài thể hiện việc đi, đứng, nằm, ngồi nhưng Ngài không bao giờ mệt mỏi. Ngài lau chùi chân và thân thể mặc dù không có dơ bẩn; Ngài súc miệng mặc dù miệng Ngài có mùi thơm như hương sen. Ngài ăn uống mặc dù Ngài không đói khát v.v… Những điều này, những người biên soạn giảng giải rằng, tất cả bởi do sự có mặt của Ngài là một sự hiện thân của những việc làm tốt. Như vậy, cơ sở của vấn đề đã được đặt ra trong Phật giáo sơ kỳ, và chính những người Đại chúng bộ đã lý tưởng hóa triệt để Đức Phật và khẳng định rằng Ngài đã giác ngộ từ nhiều kiếp trước

Ngoài chứng cứ quan trọng ở trên, có sáu đoạn khác hỗ trợ thuyết của chúng tôi về nguồn gốc khái niệm Phật của những nhà Đại chúng bộ. Thứ nhất, Nội tạng bách bảo kinh (T 807, tr. 752b 24-26) nói rằng “Ngay cho dù sấm sét trong mười phương kết hợp lại tạo ra một âm thanhâm thanhđó không thể làm rung một sợi tóc của Đức Phật bởi vì Ngài đã nhập vào định vô thanh”. Một câu chuyện tương tự được tìm thấy trong kinh Đại bát Niết-bàn (Mahāparinibbānasutta, Dīghanikāya, II, 130-133). Nơi kinh này Đức Phật nói với Pukkusa rằng, trong khi Ngài ở trong định, mưa lớn bắt đầu trút mạnh, sấm sét chớp lóe, nổ rền. Có hai anh em nông dân và bốn con bò bị sét đánh chết, nhưng Ngài không nghe một âm thanh nào.6 Có một vài điểm tương đồng đáng chú ý trong hai mô tả về định của Đức Phật: thứ nhất, Đức Phật ở trong định; thứ hai, sấm sét nổ rền; và thứ ba, Đức Phật không hề nghe âm thanh nào. Dường như rằng miêu tả trong Nội tạng bách bảo kinh được đặt cơ sở trên đoạn văn ở trong kinh Đại bát Niết-bàn. 

Thứ hai, những nhà Đại chúng bộ khẳng định rằng thọ mạng của Đức Phật là vô lượng (Masuda, 1992: 20). Sự thực, thọ mạng lâu dài của Đức Phật dường như đã được những người kiết tập các Nikāya và A-hàm xem xét. Trong tất cả những phiên bản của kinh Đại bát Niết-bàn, Đức Phật được nói là đã nhập diệt theo lời thỉnh cầu của Mara, nhưng nếu Ngài không muốn vậy, Ngài có thể sống đến một đại kiếp (kalpa).7 Bởi vì một đại kiếp là một thời gian cực kỳ dài, những nhà Đại chúng bộđương nhiên cho rằng thọ mạng của Đức Phật là vô lượng.8 Điều này cũng ủng hộ khẳng định rằng khái niệm về một Đức Phật siêu thế có gốc rễ ở một niên đại rất sớm. 

Thứ ba, theo Thế Hữu, những nhà Đại chúng bộ khẳng định rằng tất cả những gì được Đức Thế Tôn giảng giải, không có điều gì không thuận hợp với chân lý (ayathārtha) (Masuda, 1922: 19). Trong Tăng chi bộ (IV, 163-4), Tỷ-kheo Uttara nói với Sakka, “Đúng như vậy, thưa vua trời Đế Thích, tất cả những gì chúng tôi và người khác nói hoàn toàn dựa trên những lời của Đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, đấng Giác ngộ viên mãn”. Như vậy, theo phát biểu này, mọi lời nói đúng đều là lời của Đức Phật, và bất kỳ những gì Đức Phật nói đều là lời nói đúng. Những Phật tử sơ kỳ đã nghĩ rằng tất cả những lời nói của Đức Phật đều là lời nói đúng. Những nhà Đại chúng bộ hẳn nhiên giải thích đoạn này với nghĩa rằng tất cả những lời của Đức Phật đều là lời thuyết pháp. Điều này rất quan trọng đối với những nhà Đại chúng bộ, bởi vì chính việc đặt cơ sở trên những phát biểu như vậy trong những bản kinh sơ kỳ mà họ cho rằng mỗi lời của Đức Phật đều là chân lýThái độ của những nhàĐại chúng bộ về lời dạy của Đức Phật như vậy là một trong những lý do chính cho khái niệm Đức Phật siêu thế của họ. 

Thứ tư, theo Nội tạng bách bảo kinh (T 807, tr. 752a b) “Thân của Phật giống như vàng không thể bị dơ bẩn, và giống như một viên kim cương vô cùng thanh tịnh. Chân của Ngài giống như hoa senmà bùn dơ không bám vào được, và Đức Phật có hương thơm tối thượng.” Tất cả những điều như vậy nhắc chúng ta về ba trong số 32 hảo tướng của Đức Phật được miêu tả trong những kinh sơ kỳ. (1) Thân thể Đức Phật có màu sắc như sắc vàng, (2) da của Ngài nhẵn mịn đến độ không bụi bẩn nào có thể bám vào được, và (3) hương thơm của thân Phật vô cùng thanh khiết. Những nối kết giữa miêu tả của Nội tạng bách bảo kinh và ba trong số 32 hảo tưởng là rõ ràng: vàng, thanh tịnh và hương thơm. Những thuộc tính khác của Đức Phật được tìm thấy trong Nội tạng bách bảo kinh có lẽ được phát triển cùng tuyến với 32 hảo tướng

Thứ năm, Nội tạng bách bảo kinh (T 807 tr.752b) nói rằng Đức Phật biết các pháp của vô lượngchư Phật khác ở những Phật quốc khác (Buddhakṣhetra) trong mười phương. Trong Tương ưng bộ(V, 437), Đức Phật được cho là biết nhiều hơn những gì Ngài đã giảng dạy cho các đệ tử, và Ngài đã so sánh những gì Ngài thực sự đã dạy với lá Ngài nắm trong tay, trong khi những gì Ngài biết như lá trong rừng. Tương ưng bộ cho rằng hiểu biết của Đức Phật là vô lượng. Những nhà Đại chúng bộ, trên cơ sở này, đã giải thích hiểu biết của Phật như là sự toàn trí

Thứ sáu, theo Thế Hữu, những nhà Đại chúng bộ khẳng định rằng năng lực của Như Lai cũng vô lượng (Masuda, 1922: 19). Điều này có lẽ là một phát biểu chung mà nó được đặt cơ sở trên những điều vi diệu của Đức Phật được miêu tả trong những kinh sơ kỳ, chẳng hạn như những thần thôngmà nhờ đó Ngài hóa độ ba anh em Ca Diếp (Kāśyapa) và tướng cướp Aṅgulimālya (Trung bộ, II, 99). 

Tất cả những chứng cứ này cho thấy rằng những nhà Đại chúng bộ là một nhóm tín đồ có niềm tinkiên định. Vì bộ luận của Thế Hữu quy cho những nhà Đại chúng bộ lời khẳng định rằng mỗi lời của Đức Phật đều là lời thuyết pháp, điều này dường như là một sự biểu thị rõ rằng những nhà Đại chúng bộ chấp nhận mọi lời trong các Nikāya và A-hàm đều là những lời nói chân thực của chínhĐức Phật. Như vậy, với niềm tin ấy, họ đã phát triển một khái niệm Đức Phật siêu việt dựa trên cơ sở những đặc điểm siêu nhiên của Đức Phật được miêu tả trong những kinh sơ kỳ. Do đó, hai khía cạnh của khái niệm Phật của những nhà Đại chúng bộ có thể được nhận diệnĐức Phật là Đấngtoàn trí và toàn năng, và những hình thức được biểu hiện mà qua đó Ngài cứu độ chúng sanh làphương tiện thiện xảoĐức Phật Thích Ca được xem là không gì khác hơn một trong những hình thức này. Trong Phật giáo Đại thừaphương diện đầu được phát triển thành khái niệm Pháp thân (dharmakāya), trong khi phương diện sau được phát triển và được phân thành khái niệm báo thân(sambhogakāya) và ứng thân (nirmāṇakāya). Như vậy, những nhà Đại chúng bộ cũng là những người sáng tạo nên tư tưởng ứng thân

 Quảng Hưng – Nguyên Hiệp
Nguồn: The Indian International Journal of Buddhist Studies, (2004) No.5, tr. 41-51) 
(1) Những người Đại chúng bộ khẳng định rằng tất cả lời của Đức Phật đều là lời thuyết pháp và không có điều gì không thuận hợp với chân lýDị bộ tông luân luận (Samayabhedavyūhacakra, T 2031, 15b) của Thế Hữu
(2) Thuật ngữ “kinh điển sơ kỳ” chỉ cho các kinh Nikāya Pāli và A-hàm Hán ngữ. Tôi đã thảo luận về những khía cạnh con người và siêu nhiên của Đức Phật nơi chương đầu “The concept of the Buddha in early Buddhism” trong cuốn sách của tôi The Concept of the Buddha: Its Evolution from Early Buddhism to the Trikāya Theory. 
(3) Dutta (1978: 71) cũng nghĩ rằng khái niệm về Đức Phật của những người Đại chúng bộ có thể được đặt cơ sở trên những lời nói được tìm thấy trong các Nikāya, chẳng hạn như “Ta là bậc điều ngự, ta là bậc toàn trí, ta không bị những đối trượng trần tục chạm vào, ta viên mãn ở nơi cõi đời này, ta là bậc đạo sư vô song, ta là đấng giác ngộduy nhất, đã làm vắng lặng và chấm dứt mọi thứ (Trung bộ I, tr. 171). 
(4) Những học giả như V. Fausboll (1881: XI) nghĩ rằng Kinh Tập (Suttanipāta) thuộc về bộ kinh cổ nhất của văn họcPhật giáo. Fausboll cho rằng phần lớn Đại phẩm (Mahāvagga) và hầu như toàn bộ Aṭṭhakavagga là rất cổ. Ông đi đến kết luận này từ hai lý do. Thứ nhất là từ ngôn ngữ, và thứ hai là từ nội dung. Như vậy, kinh Nālaka rơi vào giai đoạn phát triển về sau. 
(5) Bản dịch Anh ngữ của Woodward (Gradual Sayings, V, 99) có một ít thay đổi. Bản dịch Hán ngữ đề cập đến ba giai đoạn là lão, bệnh và tử, khác với bản Pāli là sinh, suy yếu và chết. 
(6) Trong bốn bản dịch Hán ngữ kinh Đại bát Niết-bàn, (T 01, tr. 19a-b; T 05, tr.168a-b; T 06, tr.183c-184a,và T 07, tr.198a-b], chứng cứ này được tìm thấy
(7) T 10, tr.15c; T 05, tr.165a; T 06, tr. 180b; T 1451, tr.387c; Divyāvadāna, 201; Dīghanikāya, II, 103; Saṃyuttanikāya, V, 259; Aṅguttaranikāya, IV, 309; Udāna, VI, 62. Theo Abhidharmamahāvibhāṣā (T 1545, tr. 657b) có hai giải thích về việc từ bỏ thọ mạng của Đức Phật. Thứ nhất là rằng Đức Phật bỏ một phần ba thọ mạng bởi vìthọ mạng của Ngài là 120 năm. Thứ hai là rằng Đức Phật bỏ một phần năm thọ mạng bởi vì thọ mạng của Đức Phậtlà 100 năm. Điều này hẳn nhiên là một giải thích hợp lý của những người Nhất thiết hữu bộ
(8) Thuật ngữ kalpa dùng chỉ cho một chu kỳ thời gian dài nhất ở trong vũ trụ học Ấn Độ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1389)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1300)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1361)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1588)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1723)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1683)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1082)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1575)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1556)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1737)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 2014)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1624)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1436)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1445)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1628)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1215)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1335)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1345)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1744)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1699)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3109)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1886)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1426)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1261)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1346)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1465)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1363)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1959)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1741)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1943)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1880)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2445)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1831)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2197)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2308)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2371)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1903)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 2026)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2091)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 2025)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2656)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1993)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1948)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 2000)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1965)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2222)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2373)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 2067)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2187)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1947)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1982)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2475)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2387)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4142)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2545)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3282)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2529)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2103)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1841)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant