Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Dẫn nhập

04 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 8934)
1. Dẫn nhập

Đức Đạt Lai Lạt Ma
TU TUỆ
Bản tiếng Anh: Practicing Wisdom - Nhà xuất bản Wisdom
Bản tiếng Pháp: Pratique de la Sagesse - Nhà xuất bản Presses du Châtelet
Bản dịch Việt ngữ: Hoang Phong - Nhà xuất bản Phương Đông TP. Hồ Chí Minh 2008

1
Dẫn nhập

Phát huy một động lực tinh khiết

Suốt trong quyển sách này, với tư cách một người thầy tinh thần, tôi sẽ cố gắng phát huy trong tôi sự thúc đẩy tinh khiết nhất mà tôi có thể làm được vì lợi ích của chính quý vị, tức những người đọc quyển sách này. Về phần quý vị cũng thế, đến gần với những lời giảng huấn bằng tấm lòng thiện cảm và một tâm ý tích cực là một điều hệ trọng.

Đối với quý vị độc giả nào là những Phật tử trung kiên, mang hoài bảo đạt đến sự Tỉnh thức tối thượng, thật là hệ trọng nếu quý vị biết liên tục cố gắng tìm cách trở thành những con người thiện cảm và nhiệt tình. Chủ đích đó sẽ đem đến cho những cố gắng của quý vị một ý nghĩa, giúp quý vị tích lũy được những điều xứng đáng để tạo ra chung quanh quý vị một sức mạnh tích cực. Vì vậy, trong lúc chuẩn bị để đọc quyển sách này, quý vị hãy nương tựa vào ba Vật báu (4) và xác định trở lại một cách minh bạch lòng thương người của quý vị, quyết tâm của quý vị đạt đến Giác ngộ hoàn hảo vì sự tốt lành của tất cả chúng sinh. Không quy y Tam bảo, cách tu tập của quý vị sẽ không phải là tu tập Phật giáo. Thiếu ước vọng thương người, quyết tâm đạt được thể dạng của Phật vì lợi tha, hành vị của quý vị sẽ không thể xem là hành vi của một môn đệ Đại thừa.

Nếu quý vị nào, trong số nhũng người đọc của tôi, không phải là những người Phật giáo chuyên cần, xin quý vị ít nhất cũng nên có một chút quan tâm thật sự về đạo Phật. Sự kiện quý vị theo một truyền thống tôn giáo khác, Thiên chúa giáo chẳng hạn, điều đó cũng không cấm cản quý vị cảm thấy liên hệ đến một vài khía cạnh nào đó về phương pháp và kỷ thuật của những người Phật giáo xử dụng để cải thiện tâm linh của họ. Nếu quý vị thuộc vào trường hợp này, quý vị cũng nên cố gắng chấp nhận một thái độ thiện cảm và sự thúc đẩy tích cực trong khi quý vị chuẩn bị đọc quyển sách này. Nếu như một vài phương pháp hoặc kỹ thuật nào mà quý vị thấy có thể ghép thêm vào đời sống tinh thần của quý vị, thì quý vị cũng đừng do dự. Nếu như không làm được như thế, tốt hơn xin quý vị hãy xếp quyển sách này lại, một cách thật đơn giản.

Chính tôi đây, tôi cũng chỉ đơn giản là một nhà sư Phật giáo, ngưỡng mộ và cảm ứng sâu xa trước những lời giáo huấn của Phật, và đặc biệt trước những người đã thực hiện được lòng Từ bi và thấu hiểu về bản thể sâu kín của hiện thực. Tuy không hề có một chút xíu kiêu hãnh nào trong tư thế đứng ra trình bày những lời giáo huấn phong phú về tinh thần này, nhưng ít ra tôi cũng phải cố gắng làm những gì tôi có thể làm được để nhận lấy trọng trách của lịch sử đặt lên vai tôi trong công tác chia xẻ những lời bình giải cá nhân của tôi về những lời giáo huấn này với một số người càng đông càng tốt.

Các người đọc của tôi, nhiều vị cũng có thể mang hoài bảo muốn cải thiện tâm linh mình. Dù rằng người giảng huấn cũng cần phải đủ sức nắm vững hoàn toàn những chủ đề đưa ra giảng dạy, mặc dù thế, về phần tôi, tôi cũng không giám tự cho mình đã hiểu biết đầy đủ và toàn diện về những chủ đề mà chúng Ta-bàn thảo với nhau hôm nay. Tuy nhiên, văn bản mà chúng ta sẽ nghiên cứu liên hệ chính yếu đến học thuyết về Tánh không, một học thuyết mà tôi ngưỡng mộ hết sức sâu xa, còn hơn thế nữa có thể nói là một sự ràng buộc tình cảm, vì mỗi lần có dịp là tôi tìm cách suy tư về học thuyết đó. Theo kinh nghiệm hạn hẹp của tôi – ít ra tôi cũng tự cho phép tin là tôi đã đạt được cái kinh nghiệm ấy – chủ thuyết về Tánh không là một triết thuyết sinh động, và một khi nắm vững được triết thuyết ấy ta sẽ gặt hái được nhiều kết quả. Vì thế tôi nghĩ rằng đó là phẩm tính duy nhất mà tôi đã đạt được, giúp cho tôi dựa vào đó để thuyết giảng về văn bản của Tịch Thiên.

Trí nănglòng tin

Khi quý vị quan tâm sâu xa về Phật giáo và quý vị nhất định bước vào con đường tu tập tâm linh để khám phá sự phong phú trong những lời giảng huấn của Phật, hoặc trong trường hợp ngược lại quý vị chỉ mới khởi sự chú ý đến vấn đề này cũng thế, trong cả hai trường hợp quý vị đừng bao giờ để bị mù quáng bằng một thứ đức tin duy nhất – đừng xài hết tiền mặt cho một đức tin đơn thuần. Nếu quý vị bị lôi cuốn vào đó, quý vị có thể gặp nguy cơ đánh mất khả năng lý luận của quý vị. Đối tượng của đức tinlòng mộ đạo phải được khám phá bằng những kinh nghiệm cá nhân, có nghĩa là bằng khả năng lý luận. Nếu sự khảo sát ấy đưa đến một sự tin tưởng sâu xa, đức tin của quý vị sẽ được nẩy nở. Sự tự tin và đức tin nếu dựa trên lý trí sẽ luôn luôn vững chắc và có thể tin tưởng được ; nếu ta không xây dựng lòng tin bằng cách vận dụng trí thông minh, thì ta sẽ không còn biết phải dựa vào những cơ sở nào vững chắc hơn để xây dựng lòng tin nơi những lời giáo huấn của Phật.

Học hỏi để mở rộng tầm hiểu biết cá nhân của ta về những lời giảng huấn của Phật quả thật là một điều hệ trọng. Long Thọ (Nagarjuna) (5), một vị thầy người Ấn thuộc thế kỷ thứ II, xác nhận rằng đức tintrí thông minh, cả hai đều là những yếu tố cần thiết cho sự triển khai tinh thần, và đức tin còn có thể được xem trội hơn, như là một nền móng căn bản vậy. Tuy nhiên, Long Thọ cũng phát biểu thêm rằng đức tin chỉ đủ sức hướng dẫn sự thăng tiến tinh thần của ta khi nào nó được hổ trợ bởi trí thông minh, trí thông minhphương tiện giúp ta đủ sức nhận ra con đường phải theo và trau dồi sự hiểu biết sâu xa. Dù sao, ta không thể để sự quán nhận đơn thuần dừng lại ở cấp bậc hiểu biếttrí thông minh, như thế chưa đủ ; nó còn phải thâm nhập vào tim ta và tâm thức ta để có thể ảnh hưởng trực tiếp đến những hành vi của ta. Nói cách khác, là nghiên cứu đơn thuần trên mặt trí năng về Phật giáo sẽ không đưa đến một tác dụng nào trên thái độcách cư xử của ta trong cuộc sống.

Văn bản cội rễ 

Đối với Phật giáo Tây tạng, các văn bản cội rễ là các kinh điển sou-tra và tan-tra, ghi chép lại những lời giáo huấn đích thực của Phật. Ngoài số kinh điển ấy còn phải kể đến các bộ sách Tengyour, đó là kho tàng mênh mông gồm các trước tác của các học giả lỗi lạc người Ấn, và hàng ngàn những tập sách bình giải do các đại sư thuộc bốn trường phái Phật giáo Tây tạng biên soạn. Văn bản làm nòng cốt cho bài thuyết giảng này mang tựa đề « Sự hiểu biết siêu nhiên » thuộc vào chương IX của tập sách Hành trình đến Giác ngộ (Bodhicaryavatara), do một đại sư người Ấn là Tịch Thiên thuyết giảng vào thế kỷ thứ VIII.

Tôi được thụ giáo về văn bản này qua ngài Khounou Rinpoché - Tenzin Gyalsen, ông là một Đại thiền sư và một bậc thầy về tâm linh đã quá cố. Ông đã dốc lòng tu tập để thực hiện tâm linh Giác ngộ, dựa vào văn bản của Tịch Thiên, và chính ông, ông cũng đã được thụ giáo về văn bản này qua một vị Đại sư lừng danh khác là Djé Patrul Rinpoché. 

Tôi bình giảng tập luận Hành trình đến Giác ngộ dựa vào hai cách bình giải trong số những lời bình giải vừa kể trên đây. Cách thứ nhất của Khentchen Kunzang Palden xử dụng thuật ngữ riêng của Ninh-mã phái (Cựu học phái) ; cách thứ hai của Myniak Kunzang Seunam – vị này tuy là học trò của Patrul Rinpoché nhưng lại đứng về phía trường phái Guélougpa – xử dụng thuật ngữ giảng giải của trường phái này. Trong phần thuyết trình của tôi, tôi sẽ trình bày những khác biệt trong cả hai cách biện giải của hai học giả chuyên gia đó. Ta hãy sẽ xem kết quả biến chuyển như thế nào! 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1333)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1359)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1070)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1237)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1718)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1650)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1548)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1130)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1502)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1479)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1387)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1440)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1775)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 2124)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1490)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1146)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1491)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2155)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1531)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1615)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1456)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 3067)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1446)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1457)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1781)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1753)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1689)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1545)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2710)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1669)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1662)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1473)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1493)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1665)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1605)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1485)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1480)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1556)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2256)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1591)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1568)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1697)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1904)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1581)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1452)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1707)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1468)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1780)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2448)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1518)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 2019)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1742)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1811)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1671)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1996)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1724)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1498)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1762)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1627)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1599)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant