Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trụ Xứ

05 Tháng Giêng 202012:30(Xem: 4892)
Trụ Xứ

TRỤ XỨ

Mãn Tự

Làm Chủ Sanh Tử 1

Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm. Hai ngàn sáu trăm năm, tính theo chung cuộc trung bình là 75 năm cho một kiếp sống của chúng sanhthế giới Ta Bà này thì luân hồi chuyển hóa khoảng gần 35 kiếp. Thật là dài phải không?

Với hiện tượng biến hóa của “tình thức” theo dòng thời gian xô đẩy, việc cũ qua đi, cái mới xuất hiện theo sự vận hành của cộng nghiệp là thành - trụ - hoại - không của thế giới vô thường này, vì vậy nhận thức của nhân gian dù muốn dù không cũng theo đó mà chuyển đổi. Vì không cưỡng lại được dòng thời gian “xô đẩy” nên chúng sanh nhận lấy Hiện tượng làm thật mà quên đi Bản thể. Thế nào là lấy Hiện tượng làm thật mà quên đi Bản thể, đó là vấn đề căn bản nhất ở thế giới Ta Bà này là: Sinh - Lão - Bệnh - Tử. Đối với những nước văn minh giàu có bây giờ thì sinh không còn nguy hiểm với những bà mẹ, vì đã có những kỹ thuật văn minh tiên tiến giúp cho sự sinh được hoàn mỹ. Còn lão thì cũng có viện dưỡng lão giúp cho người già không lo lắng về thực phẩm, mà bệnh cũng vậy, có không biết bao nhiêu loại thuốc để trị liệu cho con người. Còn Tử thì sao? Không một ai giúp được dù đó là gì đi nữa, tuy nhiên có một vài giáo phái phát minh ra phương pháp trợ tử, theo những niềm tin của họ thì làm như vậy giúp cho người chết được đến nơi tốt đẹp?

Sơ lược những điều ở trên để thấy rằng, do đời sống phong phú nên con người chỉ bám đuổi theo Hiện tượng mà quên đi Bản thể. Thế nào là Bản thể - Hiện tượng. Thật ra Bản thểHiện tượng chưa bao giờ rời nhau. Nếu Bản thểHiện tượng chưa bao giờ rời nhau vậy làm thế nào để từ Hiện tượng nhận ra Bản thể? Tất cả chúng sinh hiện hữu trên thế giới này có hai Hiện tượng là bắt đầu và chấm hết, dù là bắt đầu hay chấm hết thì với chúng sinh không một ai làm chủ được hết cũng đừng nghĩ là chấp nhận hay không chấp nhận.

Thế nào là Bản thể: Tất cả Hiện tượng trong thế giới này là: Sắc - Thanh - Hương - Vị - Xúc - Pháp là từ Bản thể biến hiện ra cho đến sinh tử cũng vậy. Vì vậy vị tu hành nhận ra Bản Thể, thấy Bản thể thì Hiện tượng sinh - tử không tồn tại nữa.

Vậy làm thế nào từ Hiện tượng nhận thấy ra Bản thể? Sinh là hiện tượng nếu nhận thấy Sinh Sinhnhận ra Bản thể. Tử là Hiện tượng mà thấy được Tử Tử tức thấy được Bản thể. Vì sao sinh tử gọi là Hiện tượng mà không phải là sự thật? Gọi là Hiện tượng vì không người nào làm chủ được nên là Hiện tượng. Nếu sinh tử là thật thì cũng không có sinh tử, vì sao? Nếu sinh là thật thì không còn sinh nữa, tử cũng vậy, nếu tử là thật thì cũng không còn tử nữa.

Một vài giải thích ở trên để đi vào chính đề của bài viết này là xây dựng lại niềm tin cho giới tu hành, từ Tu sĩ cho tới Cư sĩ về giáo Pháp của Đức Như Lai để lại. Vì tình thức nhận lấy sự chuyển biến của dòng thời gian chung cộng nghiệp nên 2600 năm cũng đủ dài làm cho sự nghi ngờ càng ngày càng rộng ra.

Hiện nay trong thâm tâm giới tu hành, từ Tu sĩ tới Cư sĩ hầu hết đều có những câu hỏi, những nghi ngờ to lớn không thể giải quyết bằng chứng minh thực tại mà chỉ dựa vào niềm tin mà thôi.

Và đây sẽ đưa lên những câu hỏi, những nghi ngờ tiêu biểu trong thâm tâm giới tu hành theo giáo Pháp Đức Thế Tôn Như Lai.

1. Sự nghi ngờ thứ nhất là: Đức Thế Tôn Như Lai đã nhập Niết Bàn hay còn tồn tại?

2.  Có chư vị Bồ Tát - Đại Bồ Tát hay không, nếu có thì chư vị đó ở đâu đang làm gì, có thể thấy biết được không? Tu hành như thế nào để chứng nhập.

3. Thế nào là chánh Pháp, làm thế nào để nhận ra chánh Pháp.

4. Có sự giải thoát của bậc Thanh Văn Duyên Giác? Có sự giác ngộ của chư Đại Bồ Tát?

Thật ra thì có rất nhiều câu hỏi nghi ngờ trong giới tu hành, tuy nhiên ở đây chỉ đưa lên bốn sự nghi ngờ căn bản, cũng mong rằng sự giải đáp trong bài viết này có thể giúp các vị tu hành đang tìm cầu định hướng, củng cố niềm tin vững vàng tinh tiến để tiếp tục đi tới.

Sự nghi ngờ thứ nhất là: Đức Thế Tôn Như Lai đã nhập Niết Bàn hay còn tồn tại. Trước nhất phải hiểu từ Niết Bàn. Niết Bàntừ ngữ của đạo Hindu Đức Thế Tôn phương tiện mượn nó để chỉ cho các vị Tu sĩ Bà La Môn rằng Niết Bàn không phải chỉ là như vậy mà nó còn siêu việt hơn thế nữa.

Niết Bàn có ba tầng cấp độ.

1. Niết Bàn của các vị Ngoại đạo Tu sĩ Bà La Môn.

2. Niết Bàn của các vị Thánh Nhị Thừa Thanh Văn Duyên Giác.

3. Niết Bàn các vị Đại Bồ Tát, chư Như Lai.

Thế nào cảnh giới Niết Bàn của các vị Ngoại đạo Tu sĩ Bà La Môn: Niết Bàn các Ngoại đạoTu sĩ Bà La Môn là trong Tam giới, tức các cõi Trời từ Dục giới, Sắc giới cho đến Vô Sắc giới. Phương Pháp tu tập để được đến các cõi đó là từ Sơ thiền cho đến Cửu thứ đệ Định. Tùy theo định lực mạnh hay yếu, ý thức cộng thêm tưởng, cảnh giới hướng đến, nhờ tập trung cao độ nên khi đắc định thì cảnh giới tưởng hướng đến hiện ra. Nên nhớ các vị Ngoại đạo Tu sĩ Bà La Môn trước khi tu học thì họ được các vị thầy giảng, hay học từ kinh điển hay hình ảnh về các cảnh giới hay các cõi trời, rồi ghi nhận lưu lại làm ấn tượng hướng đến tu tập, nên khi nhập định cảnh giới xuất hiện nên gọi là tưởng, vì sao? Vì Tam giới duy Tâm. Nói chung các Ngoại đạo cùng Tu sĩ Bà La Mônchứng đắc như thế nào thì cũng không ra ngoài cái Tưởng. Vì sao? Vì Tâm lưu trú.

2. Là Niết Bàn của các vị Thánh Nhị Thừa Thanh Văn Duyên Giác.

Niết Bàn của các vị Thánh Nhị Thừatrạng thái tịch tịnh. Trạng thái an lạc tịch tịnh đó do thiền định quán Pháp mà chứng giải thoát trói buộc phiền não. Pháp các vị Thanh Văn tu họcTứ Thánh ĐếBát Chánh Đạo, còn Pháp các vị Duyên GiácThập Nhị Nhân Duyên.

Sự khác biệt giữa thiền định đạo Phật và đạo Hindu Bà La Môn cùng Tu sĩ Ngoại đạo là: các vị Thanh Văn theo Đức Thế Tôn nhờ các Pháp Thế Tôn chỉ dạy mà thiền định tu học, nên khi đắc định thì được giải thoát phiền não trói buộc, Tâm được an lạc tịch tịnh. Còn các vị Ngoại đạo Bà La Môn khi đắc định thì được sanh vào các cảnh giới trong Tam giới. Dù vậy, có một số Ngoại đạo Bà La Môn cũng tu hành thiền định mà không muốn thác sinh vào Tam giới, chỉ mong cầu được tịch tịnh. Tuy nhiên vì không có Pháp, vì nhận nhầm Pháp đoạn diệt nên khởi vọng tưởng xóa hết cái nhân giác tri, cho tất cả hư vô như thỏ không sừng. Do khởi Tâm tu hành sai lầm nên kết quả thành vô tri vô giácVô Tưởng Thiên là nơi đến.

Các vị Thánh Nhị Thừa dù được Niết Bàn tịch tịnh an lạc, tuy nhiên Niết Bàn đó không phải là rốt ráo vì không chuyển được Thức thành Trí nên còn hai cái chấp.

Một là: Chấp tướng đắc tự giác Thánh Trí sai biệt.

Hai là: Tướng so sánh chấp trước tánh vọng tưởng của tự tánh.

Thế nào là tánh “Đắc tự giác Thánh Trí sai biệt” của thừa Thanh Văn. Hãy suy ngẫm đoạn Kinh Lăng Già Đức Thế Tôn Như Lai chỉ ra: “Ấy là cảnh giới chơn Đế, vô thường, khổ, không, vô ngã, lìa dục, tịch diệt, dứt ấm, giới, nhập, tự cộng tướng, ngoài bất hoại tướng, như thật biết Tâm được tịch lặng. Tâm tịch xong được thiền định giải thoát tam muội đạo quả”. Tuy nhiên chánh thọ giải thoát ấy chẳng lìa biến dịch sanh tử bất tư nghị.

Thế nào là so sánh chấp trước tánh vọng tưởng tự tánh: ấy là đại chủng xanh, vàng, đỏ, trắng, địa, thủy, hỏa, phong, chẳng do tạo tác mà sanh tự tướng cộng tướng, tuy nhiên các vị Nhị Thừa không nhận ra đó chỉ là phương tiện của Đức Thế Tôn thuyết, chư vị Thanh Văn do đó khởi tự tánh vọng tưởng. Ấy gọi là tướng so sánh chấp trước, tánh tự tánh vọng tưởng của thừa Thanh Văn.

Tóm lại Niết Bàn chứng đắc của Nhị Thừakhông thật vì sự an lạc tịch tịnh đó chỉ là cái thức lặng dừng chứ không chuyển được cái Thức thành Trí.

3. Niết Bàn chư vị Đại Bồ Tát, chư Như Lai.

Không như Niết Bàn Ngoại đạo cùng Nhị Thừa vì cả hai còn trong vòng nhị nguyên đối đãi. Ngoại đạo thì từ nơi này đến nơi kia còn Nhị Thừa thì chỉ thích tịch tịnh, không ưa náo động.

Còn thế nào là Niết Bàn chư vị Đại Bồ Tát: đó là Niết Bàn không “dấu vết”, vì sao không dấu vết? Vì “Pháp Pháp trí tuệ, niệm niệm Niết Bàn”. Do trí tuệ chiếu trên Pháp Pháp nên Niệm Niệm thanh tịnh. Vì niệm niệm thanh tịnh nên gọi Niết Bàn (nên nhớ Niết Bàn chỉ là danh tự mà thôi)

Thế nào là Pháp Pháp trí tuệ. Đó là Phàm Phu Pháp (hay thế gian pháp), Nhị Thừa Pháp, Bồ Tát Pháp. Trong hai Pháp là thế gian PhápBồ Tát Pháp bất ly, bất nhịPhật Pháp bất ly thế gian Pháp, còn Pháp Nhị Thừa thì đứng riêng. Đối với thế gian thì các vị Nhị Thừa không chấp nhận vì nó phiền não ồn náo, còn đối với Bồ Tát Pháp thì không mong cầu vì các vị Nhị Thừa đã thỏa mãn những gì đã chứng đắc và bằng lòng an trú ở đó. Đối với các ngài ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng Bồ Đề, độ tận chúng sanh không phải là việc của các ngài.

Ở trên giải thích một ít về danh từ Niết Bàn. Bây giờ nói về Niết Bàn không dấu vết: Trong Kinh Lăng Già, bài kệ tán thán Đức Như Lai của ngài Đại Huệ Bồ Tát có một đoạn nói về Niết Bàn như thế này: “Niết Bàn chẳng thể lập. Chẳng có Niết Bàn Phật. Chẳng có Phật Niết Bàn. Lìa năng giác sở giác. Hoặc có hoặc không có. Cả hai thảy đều lìa”.

  Bài kệ ở trên cho thấy rằng Niết Bàn là một trong trạng thái mà người tu hành Bồ Tát tự chứng ngộ trong Tâm, chứ không phải một nơi chốn nào đó mà cần phải đi đến. Với hầu hết trong giới tu hànhquan niệm lệch lạc là khi chết mới nhập Niết Bàn. Vậy Đức Thế Tôn khi giác ngộthời gian 45 năm thuyết Pháp độ sinh thì gọi là gì? Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn có vị Bồ Tát hỏi về cảnh giới Niết Bàn thì Đức Thế Tôn trả lời: “Thân ta chính là Niết Bàn” còn đối với chúng sanh không hiểu về Niết Bàn như Ma Vương Ba Tuần thì Thế Tôn nói khác khi yêu cầu ngài nhập Niết Bàn.

“Chẳng có Niết Bàn Phật, chẳng có Phật Niết Bàn”. Vì vậy chư Thế Tôn, chư Đại Bồ Tát không nhập Niết Bàn. Vậy nếu các vị không nhập Niết Bàn thì đang ở đâu? Làm gì? Có thể thấy biết được không? Trước khi trả lời những nghi ngờ của giới tu hành, ở đây xin nói trước là những câu trả lời không phải tất cả mọi trình độ đều nhận được mà phải là giới tính hoa thật Tâm tu hành nhiều năm công phu mới nắm bắt được, vì đã ra ngoài sự nhận thức sáu căn, sáu trần. Thêm nữa cũng có những từ ngữ như “có và không” tuy nhiên có, không đó không ở trong nhị nguyên. Có, Không nhị nguyên được thành lập bởi lục căn, lục trần. Vì vậy khi trần hiện thì gọi là có, khi trần diệt thì gọi là không, mà sau đây cũng dùng từ có, không tuy nhiên nghĩa thì nằm ngoài căn, trần, thức.

Sự nghi ngờ đặt lên câu hỏi là: “có chư Như Lai, chư vị Đại Bồ Tát hay không” xin trả lời xác quyết là “Có”. Nói là có, vậy chư vị đó ở đâu? Có thấy được không? Có thể gặp được không? “Chắc chắn là thấy được gặp được”. Nói là “có” là “gặp được là thấy được”, vì sao? Vì chư vị đó chưa bao giờ rời chúng sanh. Nếu chư vị đó mà rời chúng sanh thì những lời “nguyện” độ tận chúng sanh trong Kinh thành ra hí luận.

Để gặp chư Như Lai, chư Đại Bồ Tát cùng Trụ Xứ của các ngài thì vị hành giả đó phải đầy đủ trang nghiêm hai cấp độ của hai Pháp: Hai Pháp đó là:

Một là: Thấy như thật thực tướng của “Sắc”.

Hai là: Phải chứng “Ngộ” bất nhị Pháp môn.

Như thế nào là thấy thực tướng của “Sắc”. Chữ Sắc này nói chung là sắc tướng của vạn hữu, vạn Pháp trong Pháp giới được thấy bằng mắt, tuy nhiên cái thấy đó không trung thực đối với hầu hết người thế gian. Vì sao?  Vì một đứng một chuyển hay vì một chữ “nhớ” hay “chấp giữ” nên thấy không trung thực thật tướng của sắc.

Vậy thế nào là “thực tướng” của Sắc? Không nói được. Vì nói ra được thì nó không còn là nó nữa mà chỉ là danh, tướng, phân biệt mà thôi. Câu thần chú “Sắc tức thị không, không tức thị sắc” trong Bát Nhã Tâm Kinh là mở đầu cho tiến trình tu hành để chứng được “thực tướng của sắc”

Để thấy được thực tướng của sắc vị hành giả tu hành phải vượt qua bốn tiến trình từ thô đến tế:

Tiến trình thứ nhất là: Phân đoạn vô thường. Phân đoạn vô thường có nghĩa là căn đối cảnh hay căn trần. Vị đó phải thấy được, chứng được sự vô thường sinh diệt của vạn Pháp.

Tiến trình thứ hai là: Tâm thức vô thường. Tâm thức vô thường có nghĩa là nhận ra sự vận hành dòng Tâm thức do chấp thủ căn – trần mà có.

Tiến trình thứ ba là: Biến dịch vô thường. Biến dịch vô thường có nghĩa là nhận ra Tâm và cảnh bất ly, vì Tâm do cảnh mà khởi, còn cảnh do Tâm mà hiện. Về Thiền Tông, không nhớ là vị Tổ thứ ba hay thứ tư, có câu nói “Cảnh duyên không tốt xấu - Tốt xấu vốn tại Tâm” là như vậy.

Tiến trình thứ tư là: Khi vị hành giả vượt qua ba cấp độ ở trên đến tiến trình thứ tư là thực hiện Hạnh độ sanh tạo cơ duyên đến lúc đúng thời cơ thì “Ngộ” ra thấy được “Thực tướng” của Sắc. Thấy thực tướng của Sắc thì phải tự Ngộ, không ai dạy được hết, cho đến Đức Thế Tôn Như Lai cũng vậy. Đức Thế Tôn chỉ cho chúng ta thực tướng của Sắc là “Không tức thị sắc” còn thấy được hay không là phần Hành Giả.

Mãn Tự
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7966)
Có một thực tế hiển nhiên cần được ghi nhận rằng, không phải ai cũng hiểu đúng về lời dạy của Đức Phật, ngay cả khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 8950)
Vị thế tối thượng ở đời được Thế Tôn xác lập dựa vào sự kết tinh của tu tập giới định tuệ và thành tựu giải thoát.
(Xem: 7565)
Một thời Thế Tôn du hành giữa dân chúng Kosala, tại thị trấn của người Kàlàmà, ở Kesaputta. Rồi các người Kàlàmà đi đến đảnh lễ...
(Xem: 8223)
Cuộc sống ngày nay, khó mà thoát ly hoàn toàn, vì cơ chế và nhịp sống của nhân loại theo đà tiến hóa khoa học và...
(Xem: 9226)
Hãy trân quý những gì đang có, giải thoáthạnh phúc ở trong lòng bàn tay của bạn! Xin hãy mỉm cười...
(Xem: 9318)
Trong Phật giáo các từ ngữ như “chánh ngữ” và “ái ngữ” luôn luôn được đề cập tới để khuyên dạy các Phật tử khi sử dụng tự do ngôn luận.
(Xem: 9006)
Theo Phật giáo Nam truyền, ngày Đản sanh, Thành đạo và nhập Niết-bàn của Đức Phật đều diễn ra vào ngày trăng tròn tháng Vesākha
(Xem: 7743)
Trong cái thấy của kinh Pháp Hoa thì tất cả vũ trụ là một. “Tất cả các cõi nước thông làm một cõi nước Phật”
(Xem: 11327)
Trong những bộ Kinh chúng ta học thường thấy hai từ Giác NgộGiải Thoát. Tất cả người tu học đều lấy hai từ đó làm cứu cánh để đi tới.
(Xem: 8810)
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh đại thừa Phật giáo.
(Xem: 8251)
Thập hiệu Như Lai, là những danh hiệu cao quý để tôn xưng những bậc đã thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
(Xem: 8136)
Cầu nguyện là một phương pháp tâm linh giúp cho con người chúng ta có thể tháo gỡ một phần nào những nỗi khổ niềm đau,
(Xem: 8121)
Tam Bảo như lãnh vực hoạt động của mặt trời. Lòng bi mẫn của các ngài thì vô tư và không bao giờ cạn kiệt.
(Xem: 6358)
Bốn Đại nguyện của giáo lý đại thừa được triển khai trên sự thực hành giáo lý Tứ Diệu Đế...
(Xem: 7747)
Một thời Đức Phật cư trú gần Bārānasī(Ba La Nại), ngài đã nói bài kệ nầy, về Vua Rồng Erakapatta.
(Xem: 7554)
Tất cả các tính đức là kết quả đến từ tinh tấn, nguyên nhân của hai tích tập phúc đứctrí tuệ. Trí địa thứ tư ngọn lửa trí huệ của...
(Xem: 7529)
Ngọn lửa trí tuệ phát ra ánh sáng khi đốt cháy các hiện tướng nhị nguyên đối đãi của các hiện tượng, do thế trí địa thứ ba được gọi là Phát quang địa.
(Xem: 8537)
Ngũ uẩn giai không 五蘊皆空 nghĩa là năm uẩn đều không có thật. Chữ uẩn 蘊 (skandha) còn gọi là ấm 陰 Uẩn là nhóm hay tập hợp hoặc tích hợp.
(Xem: 8049)
Như Lai thọ lượng là phẩm thứ 16 của kinh Pháp Hoa.
(Xem: 8446)
Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về chư tăng.
(Xem: 11271)
Đối với nhiều người, Phật Giáo vượt ra ngoài tôn giáo và là một triết lý hay "lối sống" hơn. Đó là một triết lý, vì triết lý “có nghĩa là tình yêu của trí tuệ”
(Xem: 8422)
Khi người ác xúc-phạm người hiền lành và vô tội, thì hậu-quả của hành-động ác nầy, đánh ngược lại người làm-ác, cũng giống như khi ném bụi bẩn ngược chiều gió, bụi bẩn bay ngược lại người ném.
(Xem: 7558)
Trong khi cư trú tại Tu Viện Trúc Lâm (Veluvana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về một nữ cư sĩ, tên là Uttarā.
(Xem: 7161)
Món quà tặng về Phật Pháp, cao quý hơn tất cả những món quà tặng khác, Hương vị Phật Pháp, thơm ngọt hơn tất cả những hương vị khác
(Xem: 8431)
Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về Tôn Giả A-Nan.
(Xem: 6298)
Trích dịch Chương Thứ Nhất của Tác Phẩm “Buddhism - One Teacher, Many Traditions [Phật Giáo - Một Vị Thầy, Nhiều Truyền Thống]
(Xem: 8371)
Hồi đầu là quay đầu trở lại hay xoay đầu trở lại. Thị ngạn: chính ngay đó là bờ mé. Đây là một câu người học Phật thường nghe nói.
(Xem: 9403)
Đức Phật dạy giáo lý Nghiệp với mục đích khuyến khích con người thực hành các Nghiệp lành để trang nghiêm cho kiếp sống hiện tại và...
(Xem: 8370)
Bước ngoặt quan trọng nhất trong tiến trình nhận thức của con người có lẽ là khi chúng ta bắt đầu nhận thức về chính bản thân mình.
(Xem: 9344)
Cái Thấy là một biểu hiện của sức sống bản nhiên, là sinh lực thường hằng vượt lên trên mọi giới hạn về thời gian (lúc thức, lúc ngủ, khi sống và cả khi chết…)
(Xem: 7973)
Giáo pháp của Vimalakirti trình bày các giáo pháp tinh yếu của Phật giáo Đại thừa trong 14 chương tương đối ngắn.
(Xem: 7172)
Trung luận, do Bồ-tát Long Thọ làm ra. Được viết dưới dạng kệ tụng. Có khoảng 500 bài kệ. Mỗi bài kệ có 4 câu
(Xem: 9907)
Nói chung, không dễ gì lưu lại ngọc xá lợi, không dễ gì thành tựu đạo quả qua quá trình tu chứng với những kiếp tái sinh nối tiếp trong thiện đạo.
(Xem: 15038)
Này các Tỷ kheo, trong toàn thế giới, Thiên giới, Ma giới, cùng với quần chúng Sa môn, Bà la môn, chư Thiênloài người, Như Lai là bậc chiến thắng, không bị ai chiến bại, toàn trí, toàn kiến, đại tự tại.
(Xem: 9413)
Khi thảo-luận về một ngón-tay, thì ngón-tay có phải là sự-thật không? Có phải chỉ có một ngón-tay duy-nhất, là có thể chỉ đúng vị-trí mặt trăng không?
(Xem: 7931)
Kim Cang dạy rất kỹ. Thấy “thường” đã sai mà thấy “đoạn” càng sai. Thấy có đã sai mà thấy không càng sai. Bồ tát thì “bất tận hữu vi bất trụ vô vi”.
(Xem: 7923)
Phu nhân Thắng Man sau khi phát mười hoằng thệ xong, trên hư không hoa trời liền rơi, nhạc trời liền trổi, chúng thấy điềm lành đó cũng đồng phát nguyện:
(Xem: 7975)
Ở trí địa Li cấu, bởi vì các bồ tátgiới hạnh toàn hảo, nên tự nhiên buông bỏ các hành vi sai lạc dù trong chiêm bao.
(Xem: 7910)
Thanh VănĐộc giác sinh từ chư Tối Thắng (chư Phật); chư Phật sinh từ chư Bồ tát. Đại bi, tính bất nhị, và tâm Bồ đề là những nguyên nhân của chư Tối Thắng Tử
(Xem: 7978)
Ngoại trừ các bậc tự chủ lẽ sống chết thì hầu hết chúng sanh đều không biết được thời điểm lâm chung của mình, nên khó có thể tự chủ tâm tư khi hấp hối.
(Xem: 7691)
Hakuin Ekaku (Bạch Ẩn Huệ Hạc, 白隠 慧鶴?, January 19, 1686 - January 18, 1768) là một thiền sư Nhật nổi tiếng đã có công gây dựng lại dòng thiền Lâm Tế ở Nhật Bản
(Xem: 8698)
Vua A Xà Thế vốn là vị vua có tài, nhờ Phật chuyển hóanhận ra sai lầm, biết sám hối, ăn năn, làm mới lại chính mình, làm lại cuộc đời.
(Xem: 7930)
Muốn thấy được Phật tánh thì phải dừng nghiệp thức. Nghiệp thức không dừng không bao giờ chúng ta thấy được tánh Phật.
(Xem: 8442)
Vượt thoát bể khổ, hẳn không ra ngoài chữ buông. Từ buông vật tài, đến buông thân, rồi buông vọng tưởng, âu là lộ trình vật vã.
(Xem: 10446)
Trong nền văn hóa 5000 năm của con người, mỗi con số không đơn thuần chỉ là con số khô khan mà tất cả con số đều có một ý nghĩa đặc biệt của vũ trụ huyền bí.
(Xem: 8000)
Đây là bốn Chân lý cao quý. Này chư tăng! Những gì là bốn? Các Chân lý cao quý về khổ, về nguồn gốc của khổ, về sự chấm dứt của khổ, và Chân lý cao quý về phương pháp dẫn đến sự chấm dứt của khổ.
(Xem: 10973)
Trong kinh có ghi lý do Đức Phật xuất hiện nơi đời chỉ vì một đại sự nhân duyên lớn đó là Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến...
(Xem: 8691)
Cùng một việc dứt thở, bỏ xác, tại sao ở người thế-gian, gọi là chết, còn ở Phật lại gọi là “nhập Niết-bàn”?
(Xem: 7827)
Sống, theo tính chất duyên sinh, là sống với, liên hệ với; không ai sống mà không có mối tương quan với người khác.
(Xem: 7504)
Vào đầu thế kỷ 12, quân Hồi giáo đã xâm chiếm Ấn-độ, với bản chất tàn bạo họ đã tàn sát các Tăng Ni, Phật tử, đốt sạch các Kinh điển Phật giáo...
(Xem: 8424)
Như Lai là một trong mười danh hiệu của Thế Tôn. Vậy thế nào là “Pháp” và tu học như thế nào để “thấy Pháp”.
(Xem: 7984)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo của vũ trụ. Nó cao cả hơn một thượng đế nhân tạoloại bỏ những giáo điềuthần học.
(Xem: 8496)
Nhập Trung đạoCon đường Bồ tát tích hợp đại bitrí tuệ, khởi hành từ đại bi và tích hợp với tính bất nhị và tâm bồ đề.
(Xem: 7937)
Thanh VănĐộc giác sinh từ chư Tối Thắng (Chư Phật) Chư Phật sinh từ chư Bồ tát. Đại bi, tính bất nhị, và tâm Bồ đề là những nguyên nhân của chư Tối Thắng Tử (Chư Bồ tát)
(Xem: 7925)
Bộ luận này, giải thích một cách không sai lạc tri kiến của ngài Long Thọ, được tích hợp từ Trung Lu
(Xem: 7116)
Theo kinh điển Nguyên thủy của Phật giáo Nam tông, Bồ tát Đản sanh, Bồ tát thành Đạo và Phật nhập Niết-bàn đều diễn ra vào ngày trăng tròn tháng tư âm lịch.
(Xem: 8329)
Tập tục dâng hương là một đạo lý truyền thống của dân tộc có từ ngàn xưa, đây là những gia bảo tinh thần đáng quý của tổ tiên để lại cho con cháu kế thừa.
(Xem: 8124)
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn từ Sơ thiền rồi Nhị Thiền, Tam thiền lần lượt thuận nghịch như vậy ra vào chín bậc thiền định xong, nói với đại chúng rằng...
(Xem: 8223)
Niết bàn thì ở khắp mọi nơi, ít nhất là đối với những người nói tiếng Anh. Từ ngữ nầy đã được dùng trong Anh Ngữ với ý nghĩa là "hạnh phúc" hoặc "bình yên".
(Xem: 9087)
Thần thông của Đức Phật là một trong những đề tài thu hút người viết và lôi cuốn người đọc. Từ trước đến nay, đã có nhiều bài viết đề cập đến vấn đề này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant