Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trụ Xứ

05 Tháng Giêng 202012:30(Xem: 4940)
Trụ Xứ

TRỤ XỨ

Mãn Tự

Làm Chủ Sanh Tử 1

Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm. Hai ngàn sáu trăm năm, tính theo chung cuộc trung bình là 75 năm cho một kiếp sống của chúng sanhthế giới Ta Bà này thì luân hồi chuyển hóa khoảng gần 35 kiếp. Thật là dài phải không?

Với hiện tượng biến hóa của “tình thức” theo dòng thời gian xô đẩy, việc cũ qua đi, cái mới xuất hiện theo sự vận hành của cộng nghiệp là thành - trụ - hoại - không của thế giới vô thường này, vì vậy nhận thức của nhân gian dù muốn dù không cũng theo đó mà chuyển đổi. Vì không cưỡng lại được dòng thời gian “xô đẩy” nên chúng sanh nhận lấy Hiện tượng làm thật mà quên đi Bản thể. Thế nào là lấy Hiện tượng làm thật mà quên đi Bản thể, đó là vấn đề căn bản nhất ở thế giới Ta Bà này là: Sinh - Lão - Bệnh - Tử. Đối với những nước văn minh giàu có bây giờ thì sinh không còn nguy hiểm với những bà mẹ, vì đã có những kỹ thuật văn minh tiên tiến giúp cho sự sinh được hoàn mỹ. Còn lão thì cũng có viện dưỡng lão giúp cho người già không lo lắng về thực phẩm, mà bệnh cũng vậy, có không biết bao nhiêu loại thuốc để trị liệu cho con người. Còn Tử thì sao? Không một ai giúp được dù đó là gì đi nữa, tuy nhiên có một vài giáo phái phát minh ra phương pháp trợ tử, theo những niềm tin của họ thì làm như vậy giúp cho người chết được đến nơi tốt đẹp?

Sơ lược những điều ở trên để thấy rằng, do đời sống phong phú nên con người chỉ bám đuổi theo Hiện tượng mà quên đi Bản thể. Thế nào là Bản thể - Hiện tượng. Thật ra Bản thểHiện tượng chưa bao giờ rời nhau. Nếu Bản thểHiện tượng chưa bao giờ rời nhau vậy làm thế nào để từ Hiện tượng nhận ra Bản thể? Tất cả chúng sinh hiện hữu trên thế giới này có hai Hiện tượng là bắt đầu và chấm hết, dù là bắt đầu hay chấm hết thì với chúng sinh không một ai làm chủ được hết cũng đừng nghĩ là chấp nhận hay không chấp nhận.

Thế nào là Bản thể: Tất cả Hiện tượng trong thế giới này là: Sắc - Thanh - Hương - Vị - Xúc - Pháp là từ Bản thể biến hiện ra cho đến sinh tử cũng vậy. Vì vậy vị tu hành nhận ra Bản Thể, thấy Bản thể thì Hiện tượng sinh - tử không tồn tại nữa.

Vậy làm thế nào từ Hiện tượng nhận thấy ra Bản thể? Sinh là hiện tượng nếu nhận thấy Sinh Sinhnhận ra Bản thể. Tử là Hiện tượng mà thấy được Tử Tử tức thấy được Bản thể. Vì sao sinh tử gọi là Hiện tượng mà không phải là sự thật? Gọi là Hiện tượng vì không người nào làm chủ được nên là Hiện tượng. Nếu sinh tử là thật thì cũng không có sinh tử, vì sao? Nếu sinh là thật thì không còn sinh nữa, tử cũng vậy, nếu tử là thật thì cũng không còn tử nữa.

Một vài giải thích ở trên để đi vào chính đề của bài viết này là xây dựng lại niềm tin cho giới tu hành, từ Tu sĩ cho tới Cư sĩ về giáo Pháp của Đức Như Lai để lại. Vì tình thức nhận lấy sự chuyển biến của dòng thời gian chung cộng nghiệp nên 2600 năm cũng đủ dài làm cho sự nghi ngờ càng ngày càng rộng ra.

Hiện nay trong thâm tâm giới tu hành, từ Tu sĩ tới Cư sĩ hầu hết đều có những câu hỏi, những nghi ngờ to lớn không thể giải quyết bằng chứng minh thực tại mà chỉ dựa vào niềm tin mà thôi.

Và đây sẽ đưa lên những câu hỏi, những nghi ngờ tiêu biểu trong thâm tâm giới tu hành theo giáo Pháp Đức Thế Tôn Như Lai.

1. Sự nghi ngờ thứ nhất là: Đức Thế Tôn Như Lai đã nhập Niết Bàn hay còn tồn tại?

2.  Có chư vị Bồ Tát - Đại Bồ Tát hay không, nếu có thì chư vị đó ở đâu đang làm gì, có thể thấy biết được không? Tu hành như thế nào để chứng nhập.

3. Thế nào là chánh Pháp, làm thế nào để nhận ra chánh Pháp.

4. Có sự giải thoát của bậc Thanh Văn Duyên Giác? Có sự giác ngộ của chư Đại Bồ Tát?

Thật ra thì có rất nhiều câu hỏi nghi ngờ trong giới tu hành, tuy nhiên ở đây chỉ đưa lên bốn sự nghi ngờ căn bản, cũng mong rằng sự giải đáp trong bài viết này có thể giúp các vị tu hành đang tìm cầu định hướng, củng cố niềm tin vững vàng tinh tiến để tiếp tục đi tới.

Sự nghi ngờ thứ nhất là: Đức Thế Tôn Như Lai đã nhập Niết Bàn hay còn tồn tại. Trước nhất phải hiểu từ Niết Bàn. Niết Bàntừ ngữ của đạo Hindu Đức Thế Tôn phương tiện mượn nó để chỉ cho các vị Tu sĩ Bà La Môn rằng Niết Bàn không phải chỉ là như vậy mà nó còn siêu việt hơn thế nữa.

Niết Bàn có ba tầng cấp độ.

1. Niết Bàn của các vị Ngoại đạo Tu sĩ Bà La Môn.

2. Niết Bàn của các vị Thánh Nhị Thừa Thanh Văn Duyên Giác.

3. Niết Bàn các vị Đại Bồ Tát, chư Như Lai.

Thế nào cảnh giới Niết Bàn của các vị Ngoại đạo Tu sĩ Bà La Môn: Niết Bàn các Ngoại đạoTu sĩ Bà La Môn là trong Tam giới, tức các cõi Trời từ Dục giới, Sắc giới cho đến Vô Sắc giới. Phương Pháp tu tập để được đến các cõi đó là từ Sơ thiền cho đến Cửu thứ đệ Định. Tùy theo định lực mạnh hay yếu, ý thức cộng thêm tưởng, cảnh giới hướng đến, nhờ tập trung cao độ nên khi đắc định thì cảnh giới tưởng hướng đến hiện ra. Nên nhớ các vị Ngoại đạo Tu sĩ Bà La Môn trước khi tu học thì họ được các vị thầy giảng, hay học từ kinh điển hay hình ảnh về các cảnh giới hay các cõi trời, rồi ghi nhận lưu lại làm ấn tượng hướng đến tu tập, nên khi nhập định cảnh giới xuất hiện nên gọi là tưởng, vì sao? Vì Tam giới duy Tâm. Nói chung các Ngoại đạo cùng Tu sĩ Bà La Mônchứng đắc như thế nào thì cũng không ra ngoài cái Tưởng. Vì sao? Vì Tâm lưu trú.

2. Là Niết Bàn của các vị Thánh Nhị Thừa Thanh Văn Duyên Giác.

Niết Bàn của các vị Thánh Nhị Thừatrạng thái tịch tịnh. Trạng thái an lạc tịch tịnh đó do thiền định quán Pháp mà chứng giải thoát trói buộc phiền não. Pháp các vị Thanh Văn tu họcTứ Thánh ĐếBát Chánh Đạo, còn Pháp các vị Duyên GiácThập Nhị Nhân Duyên.

Sự khác biệt giữa thiền định đạo Phật và đạo Hindu Bà La Môn cùng Tu sĩ Ngoại đạo là: các vị Thanh Văn theo Đức Thế Tôn nhờ các Pháp Thế Tôn chỉ dạy mà thiền định tu học, nên khi đắc định thì được giải thoát phiền não trói buộc, Tâm được an lạc tịch tịnh. Còn các vị Ngoại đạo Bà La Môn khi đắc định thì được sanh vào các cảnh giới trong Tam giới. Dù vậy, có một số Ngoại đạo Bà La Môn cũng tu hành thiền định mà không muốn thác sinh vào Tam giới, chỉ mong cầu được tịch tịnh. Tuy nhiên vì không có Pháp, vì nhận nhầm Pháp đoạn diệt nên khởi vọng tưởng xóa hết cái nhân giác tri, cho tất cả hư vô như thỏ không sừng. Do khởi Tâm tu hành sai lầm nên kết quả thành vô tri vô giácVô Tưởng Thiên là nơi đến.

Các vị Thánh Nhị Thừa dù được Niết Bàn tịch tịnh an lạc, tuy nhiên Niết Bàn đó không phải là rốt ráo vì không chuyển được Thức thành Trí nên còn hai cái chấp.

Một là: Chấp tướng đắc tự giác Thánh Trí sai biệt.

Hai là: Tướng so sánh chấp trước tánh vọng tưởng của tự tánh.

Thế nào là tánh “Đắc tự giác Thánh Trí sai biệt” của thừa Thanh Văn. Hãy suy ngẫm đoạn Kinh Lăng Già Đức Thế Tôn Như Lai chỉ ra: “Ấy là cảnh giới chơn Đế, vô thường, khổ, không, vô ngã, lìa dục, tịch diệt, dứt ấm, giới, nhập, tự cộng tướng, ngoài bất hoại tướng, như thật biết Tâm được tịch lặng. Tâm tịch xong được thiền định giải thoát tam muội đạo quả”. Tuy nhiên chánh thọ giải thoát ấy chẳng lìa biến dịch sanh tử bất tư nghị.

Thế nào là so sánh chấp trước tánh vọng tưởng tự tánh: ấy là đại chủng xanh, vàng, đỏ, trắng, địa, thủy, hỏa, phong, chẳng do tạo tác mà sanh tự tướng cộng tướng, tuy nhiên các vị Nhị Thừa không nhận ra đó chỉ là phương tiện của Đức Thế Tôn thuyết, chư vị Thanh Văn do đó khởi tự tánh vọng tưởng. Ấy gọi là tướng so sánh chấp trước, tánh tự tánh vọng tưởng của thừa Thanh Văn.

Tóm lại Niết Bàn chứng đắc của Nhị Thừakhông thật vì sự an lạc tịch tịnh đó chỉ là cái thức lặng dừng chứ không chuyển được cái Thức thành Trí.

3. Niết Bàn chư vị Đại Bồ Tát, chư Như Lai.

Không như Niết Bàn Ngoại đạo cùng Nhị Thừa vì cả hai còn trong vòng nhị nguyên đối đãi. Ngoại đạo thì từ nơi này đến nơi kia còn Nhị Thừa thì chỉ thích tịch tịnh, không ưa náo động.

Còn thế nào là Niết Bàn chư vị Đại Bồ Tát: đó là Niết Bàn không “dấu vết”, vì sao không dấu vết? Vì “Pháp Pháp trí tuệ, niệm niệm Niết Bàn”. Do trí tuệ chiếu trên Pháp Pháp nên Niệm Niệm thanh tịnh. Vì niệm niệm thanh tịnh nên gọi Niết Bàn (nên nhớ Niết Bàn chỉ là danh tự mà thôi)

Thế nào là Pháp Pháp trí tuệ. Đó là Phàm Phu Pháp (hay thế gian pháp), Nhị Thừa Pháp, Bồ Tát Pháp. Trong hai Pháp là thế gian PhápBồ Tát Pháp bất ly, bất nhịPhật Pháp bất ly thế gian Pháp, còn Pháp Nhị Thừa thì đứng riêng. Đối với thế gian thì các vị Nhị Thừa không chấp nhận vì nó phiền não ồn náo, còn đối với Bồ Tát Pháp thì không mong cầu vì các vị Nhị Thừa đã thỏa mãn những gì đã chứng đắc và bằng lòng an trú ở đó. Đối với các ngài ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng Bồ Đề, độ tận chúng sanh không phải là việc của các ngài.

Ở trên giải thích một ít về danh từ Niết Bàn. Bây giờ nói về Niết Bàn không dấu vết: Trong Kinh Lăng Già, bài kệ tán thán Đức Như Lai của ngài Đại Huệ Bồ Tát có một đoạn nói về Niết Bàn như thế này: “Niết Bàn chẳng thể lập. Chẳng có Niết Bàn Phật. Chẳng có Phật Niết Bàn. Lìa năng giác sở giác. Hoặc có hoặc không có. Cả hai thảy đều lìa”.

  Bài kệ ở trên cho thấy rằng Niết Bàn là một trong trạng thái mà người tu hành Bồ Tát tự chứng ngộ trong Tâm, chứ không phải một nơi chốn nào đó mà cần phải đi đến. Với hầu hết trong giới tu hànhquan niệm lệch lạc là khi chết mới nhập Niết Bàn. Vậy Đức Thế Tôn khi giác ngộthời gian 45 năm thuyết Pháp độ sinh thì gọi là gì? Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn có vị Bồ Tát hỏi về cảnh giới Niết Bàn thì Đức Thế Tôn trả lời: “Thân ta chính là Niết Bàn” còn đối với chúng sanh không hiểu về Niết Bàn như Ma Vương Ba Tuần thì Thế Tôn nói khác khi yêu cầu ngài nhập Niết Bàn.

“Chẳng có Niết Bàn Phật, chẳng có Phật Niết Bàn”. Vì vậy chư Thế Tôn, chư Đại Bồ Tát không nhập Niết Bàn. Vậy nếu các vị không nhập Niết Bàn thì đang ở đâu? Làm gì? Có thể thấy biết được không? Trước khi trả lời những nghi ngờ của giới tu hành, ở đây xin nói trước là những câu trả lời không phải tất cả mọi trình độ đều nhận được mà phải là giới tính hoa thật Tâm tu hành nhiều năm công phu mới nắm bắt được, vì đã ra ngoài sự nhận thức sáu căn, sáu trần. Thêm nữa cũng có những từ ngữ như “có và không” tuy nhiên có, không đó không ở trong nhị nguyên. Có, Không nhị nguyên được thành lập bởi lục căn, lục trần. Vì vậy khi trần hiện thì gọi là có, khi trần diệt thì gọi là không, mà sau đây cũng dùng từ có, không tuy nhiên nghĩa thì nằm ngoài căn, trần, thức.

Sự nghi ngờ đặt lên câu hỏi là: “có chư Như Lai, chư vị Đại Bồ Tát hay không” xin trả lời xác quyết là “Có”. Nói là có, vậy chư vị đó ở đâu? Có thấy được không? Có thể gặp được không? “Chắc chắn là thấy được gặp được”. Nói là “có” là “gặp được là thấy được”, vì sao? Vì chư vị đó chưa bao giờ rời chúng sanh. Nếu chư vị đó mà rời chúng sanh thì những lời “nguyện” độ tận chúng sanh trong Kinh thành ra hí luận.

Để gặp chư Như Lai, chư Đại Bồ Tát cùng Trụ Xứ của các ngài thì vị hành giả đó phải đầy đủ trang nghiêm hai cấp độ của hai Pháp: Hai Pháp đó là:

Một là: Thấy như thật thực tướng của “Sắc”.

Hai là: Phải chứng “Ngộ” bất nhị Pháp môn.

Như thế nào là thấy thực tướng của “Sắc”. Chữ Sắc này nói chung là sắc tướng của vạn hữu, vạn Pháp trong Pháp giới được thấy bằng mắt, tuy nhiên cái thấy đó không trung thực đối với hầu hết người thế gian. Vì sao?  Vì một đứng một chuyển hay vì một chữ “nhớ” hay “chấp giữ” nên thấy không trung thực thật tướng của sắc.

Vậy thế nào là “thực tướng” của Sắc? Không nói được. Vì nói ra được thì nó không còn là nó nữa mà chỉ là danh, tướng, phân biệt mà thôi. Câu thần chú “Sắc tức thị không, không tức thị sắc” trong Bát Nhã Tâm Kinh là mở đầu cho tiến trình tu hành để chứng được “thực tướng của sắc”

Để thấy được thực tướng của sắc vị hành giả tu hành phải vượt qua bốn tiến trình từ thô đến tế:

Tiến trình thứ nhất là: Phân đoạn vô thường. Phân đoạn vô thường có nghĩa là căn đối cảnh hay căn trần. Vị đó phải thấy được, chứng được sự vô thường sinh diệt của vạn Pháp.

Tiến trình thứ hai là: Tâm thức vô thường. Tâm thức vô thường có nghĩa là nhận ra sự vận hành dòng Tâm thức do chấp thủ căn – trần mà có.

Tiến trình thứ ba là: Biến dịch vô thường. Biến dịch vô thường có nghĩa là nhận ra Tâm và cảnh bất ly, vì Tâm do cảnh mà khởi, còn cảnh do Tâm mà hiện. Về Thiền Tông, không nhớ là vị Tổ thứ ba hay thứ tư, có câu nói “Cảnh duyên không tốt xấu - Tốt xấu vốn tại Tâm” là như vậy.

Tiến trình thứ tư là: Khi vị hành giả vượt qua ba cấp độ ở trên đến tiến trình thứ tư là thực hiện Hạnh độ sanh tạo cơ duyên đến lúc đúng thời cơ thì “Ngộ” ra thấy được “Thực tướng” của Sắc. Thấy thực tướng của Sắc thì phải tự Ngộ, không ai dạy được hết, cho đến Đức Thế Tôn Như Lai cũng vậy. Đức Thế Tôn chỉ cho chúng ta thực tướng của Sắc là “Không tức thị sắc” còn thấy được hay không là phần Hành Giả.

Mãn Tự
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8231)
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn từ Sơ thiền rồi Nhị Thiền, Tam thiền lần lượt thuận nghịch như vậy ra vào chín bậc thiền định xong, nói với đại chúng rằng...
(Xem: 8313)
Niết bàn thì ở khắp mọi nơi, ít nhất là đối với những người nói tiếng Anh. Từ ngữ nầy đã được dùng trong Anh Ngữ với ý nghĩa là "hạnh phúc" hoặc "bình yên".
(Xem: 9172)
Thần thông của Đức Phật là một trong những đề tài thu hút người viết và lôi cuốn người đọc. Từ trước đến nay, đã có nhiều bài viết đề cập đến vấn đề này.
(Xem: 8063)
Một số người tái-sinh lên làm người (sinh từ bào thai trong bụng mẹ), người độc-ác tái-sinh xuống địa ngục, người hiền-lành tái-sinh lên cõi trời, và người không-còn ô-nhiễm, sống hoàn-toàn an-lạc nơi cõi Niết Bàn.
(Xem: 16283)
Khoa học thần kinh ngày hôm nay đã chứng minh một cách khách quan và cụ thể rằng chánh niệm (samma-sati) là con đường trực tiếp nhất để gạt bỏ vọng tưởng về cái "ta"
(Xem: 15809)
Trong các ngành khoa học, rất có thể khoa học thần kinh (neurosciences) sẽ là ngành phát triển mạnh và gây nhiều ảnh hưởng nhất trong những thập niên tới.
(Xem: 8005)
Sự kiện Đức Phật nhập Niết-bàn thường được các giới Phật giáo tổ chức thành một lễ hội thiêng liêng.
(Xem: 8014)
Từ trước đến nay không có một tôn giáo, triết họctâm lý học nào phân tích tâm đầy đủ rõ ràng như Phật Giáo.
(Xem: 8735)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc.
(Xem: 7908)
Kinh Hoa sen pháp diệu là dịch nghĩa từ tiếng Phạn Saddharmapuṇḍarīka-sūtra, và được dịch ra tiếng Trung Hoa bởi nhiều dịch giả.
(Xem: 7502)
Chẳng đồng nhất, chẳng dị biệt, chẳng đoạn diệt, chẳng thường hằng: đây là các giáo pháp bất tử của chư Phật, chư thượng thủ của thế giới.
(Xem: 9317)
Theo Phật Giáo, tâm tư duy (Tâm phan, như vệ tinh quả đất, định tinh mặt trời, và vô lượng thiên hà) có thể sinh ra trong không gian thời gian...
(Xem: 8576)
Trong cuốn giáo thuyết về linh hồn của Phật Giáo, Soul theory of the Buddhist, Giáo Sư Stcherbatsky, ghi nhận rằng...
(Xem: 8637)
Bất kì một sự vật gì tùy thuộc vào một nguyên nhân thì duyên hội thành một hiệu quả.
(Xem: 11914)
Đức Phật đã giải thích nguồn gốc của thế giới, vũ trụ, vạn vật, là do nghiệp quả (cause & effect) hấp dẫn cùng với sức thu hút bởi 12 nhân duyên
(Xem: 7531)
Ngũ uẩn hay là Ngũ ấm chỉ là năm (pañca) nhóm (skandha) tượng trưng cho năm yếu tố tạo thành con người, toàn bộ thân tâm...
(Xem: 8312)
Tạng Quang Minhcon đường đi của ánh sáng, cùng với năng lượng (chân hỏa tam muội, energy) và sắc tướng (mass) là phương tiện thần thông để du hành trong vũ trụ.
(Xem: 11752)
Nguyên văn đoạn kinh trong phẩm Phật-đà, Tương ưng bộ, như sau: “Này các Tỳ-kheo, thế nào là lý duyên khởi?
(Xem: 7412)
Phật Pháp được chia ra làm bốn thể loại là Giáo, Lý, Hành và Quả.
(Xem: 9015)
Tâm người bị ba thứ độc tố trói buộc, chính vì vậy chúng ta không sao vượt thoát được cảnh trầm luân khốn khổ. Chúng ta bị mắc kẹt trong phiền não của ba độc
(Xem: 8428)
Trong ý niệm này là sự bất biến thiên được hiểu như là một sự tướng trạng hoá của thật tướng của các sự vật.
(Xem: 10048)
Mọi tôn giáo đều tin rằng có sự sống sau khi chết, tức có kiếp sau của một ‘linh hồn’ thật sự. Học thuyết Phật giáo nên được phân biệt trong...
(Xem: 9689)
"Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" là một câu kinh rất ngắn trong cả quyển kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật rất nổi tiếng được giới học Phật trích dẫn nhiều nhứt.
(Xem: 9616)
Mọi tồn tại đều vốn có Tự tính (như là bản chất) của nó. Vì rằng cái thành lập ra nó là Nhân tạo tác (Nhân) và Điều kiện tạo tác (Duyên) cũng tồn tại,
(Xem: 10571)
Giai đoạn đầu của Phật giáo Đại thừa được thể chứng qua sự hình thành và phát triển một văn hệ đồ sộ là Bát-nhã ba-la-mật-đa (prajñāpāramitā).
(Xem: 10156)
Căn bản trung quán luận tụng (Mūlamadhyamaka-kārikā) là một bộ luận chính trong ngôi nhà đồ sộ tráng lệ Trung Quán.
(Xem: 8244)
Cộng đồng nhân loại đã đến một điểm nghiêm trọng trong lịch sử của nó. Thế giới ngày nay khiến chúng ta phải chấp nhận nhân loại là một.
(Xem: 20324)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 8101)
Trong thế giới này cá nhân không hiện hữu, ngã cũng không hiện hữu, bởi vì chúng là các sự vật duyên khởi.
(Xem: 8584)
Đối tượng chấp thủ của tâm chấm dứt (tâm hành xứ diệt), Con đường ngôn ngữ không có lối vào (ngôn ngữ đạo đoạn).
(Xem: 9429)
Đấng Toàn Giác biết đã đến lúc sắp kết thúc kiếp sống này của Ngài. Nhưng trước khi nhập diệt, Đức Phật muốn
(Xem: 9347)
Ngã được nói đến, Để phân biệt với vô ngã. Chư Phật dạy thật tướng các pháp, Không có ngã, không có vô ngã.
(Xem: 7756)
Để giúp độc giả, tôi sẽ trình bày một bản tổng hợp giáo lý của các thuyết phục chính yếu về tôn giáotriết học của ngài Long Thọ.
(Xem: 8369)
Đây là bốn Chân lý cao quý. Này chư tăng! Những gì là bốn?
(Xem: 8216)
Do vô minh che lấp, chúng sinh tạo ba hành, nên theo ba hành nghiệp (thân, ngữ, tâm) vào luân hồi sáu cõi.
(Xem: 9044)
Hiện nay, giới nghiên cứu Phật học đang lưu tâm đến vấn đề: “Bát kỉnh pháp do Đức Phật chế ra hay do người sau thêm vào trong Tam tạng giáo điển?”.
(Xem: 8794)
Chúng ta phải hỏi điểm xuất phát là gì, chủ đề là gì, và quan tâm tối hậu của bộ luận tuyệt vời này là gì.
(Xem: 8646)
Chúng ta đang tiến dần đến đỉnh cao vĩ đại của Giáo Pháp, và mặc dù có những nguy hiểm đáng sợ đang đe doạ thế giới chúng ta.
(Xem: 10200)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hoá dân gian như...
(Xem: 8149)
Năm giớimười điều thiện được xem là cơ sở thiết lập đạo đức Phật giáo thì giới thứ hai “Không trộm cắp” là nhằm đảm bảo tính công bình và hướng tâm con người đi đến sự vô tham, vô sân, vô si.
(Xem: 8858)
Một khi tâm giác ngộ đã phát sinh, hạt giống của giáo pháp sẽ tiếp tục lớn mạnh cho dù...
(Xem: 9022)
Năm pháp, cùng tự tính, Tám thức, hai vô ngã. Hết thảy nó đều thâu nhiếp Đại thừa.
(Xem: 8472)
Nếu chúng ta có một sự sân hận lớn dễ bùng nổ và chưa rèn luyện chính mình một cách thích đáng, thế nên khi chúng ta cố gắng để...
(Xem: 7618)
Nguyên lý ở đây, là nguyên lý vô ngã, của Pháp duyên khởi, nguyên lý này ở chỗ khác, Pháp Hoa còn gọi là “vốn thường hằng tịch diệt”:
(Xem: 7537)
Chư Phật thấy các hữu tìnhbản tính tự nhiênniết bàn / bản tính niết bàn (prakrtiparinirvana; natural nirvana), vượt ngoài sầu muộn...
(Xem: 9535)
Phật giáo không bao giờ có khái niệm cõi âm hay là âm phủ. Có thể đây là những từ ngữ của tín ngưỡng dân gian
(Xem: 9905)
Tự lựctha lực là những khái niệm được đề cập rất nhiều trong Phật giáo. Những khái niệm này bao trùm...
(Xem: 8571)
Ba truyền thống Phật giáo Ấn Độ, Trung Hoa và Tây Tạng đều cho rằng Phật tánh hay Như Lai tạng là lần thuyết pháp sau cùng và cũng là cực điểm của kinh điển.
(Xem: 12320)
Tại sao gọi Tánh không duyên khởi? Nhà Phật nói tất cả pháp Tánh không, do duyên hợp thành các pháp.
(Xem: 9633)
Trước khi trở lại Tâm Kinh, hãy thử tìm hiểu thuyết vô ngã qua kiến giải của nhiều bộ phái khác nhau trong Phật giáo để...
(Xem: 7578)
Giáo huấn được mở rộng vô hạn và được tuyên thuyết đến vô lượng chúng sanh khắp các loài đủ các tính khí.
(Xem: 8877)
Sự “chuyển phước” như chỉ là một phép ẩn dụ phần nào đẹp để chỉ những gì xảy ra đối với những ảnh hưởng của hành động có kết quả tốt (puṇya), điều được gọi là “thiện nghiệp”
(Xem: 16938)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 9032)
Theo quan điểm của Phật Giáo thì mục đích của lễ bái là nhằm giúp chúng ta đến gần hơn với Đức Phật.
(Xem: 13269)
Phật giáophương cách dùng lòng Từ Bi để xóa đi, diệt đi lòng sân hận oán hờn, đó là phương thuốc diệt khổ cho vui,
(Xem: 19830)
Phật GiáoVũ Trụ Quan (PDF) - Tác giả: Lê Huy Trứ
(Xem: 8676)
Dưới đây là một bài viết của học giả Phật giáo Philippe Cornu, và cũng là bài mở đầu trong tập san "Hướng nhìn Phật giáo" (Regard Bouddhiste)...
(Xem: 9250)
Đối với Phật giáo, dana - việc bố thí - giữ một vai trò thật quan trọng, bởi vì nếu ngay từ lúc mới khởi sự tu tập mà không thực thi việc bố thí thì sẽ ...
(Xem: 8318)
“Tất cả ba cõi chỉ là Một Tâm”. Phẩm Dạ-ma cung kệ tán nói, “Như tâm, Phật cũng vậy. Như Phật, chúng sanh đồng. Tâm, Phật, và chúng sanh. Cả ba không sai khác”.
(Xem: 10223)
“Theravāda Tantra”, hay “esoteric practices of Theravāda ” là những thuật ngữ mà các học giả phương tây sử dụng để gọi các pháp hành mang tính bí truyền của...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant