Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiệnhình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen và nghe ra âm baquen thuộc “Ta là bậc tối thượng, tôn quý ở đời” (Thiên thượngthiên hạ, duy ngã vi tôn).
Nói đến Như Lai, người đệ tử Phật thường khắc niệm mười ân đứcPhật bảo cao thượng vô song (Nam-mô Như Lai: Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn).
Giữa hội chúng trời người, Như Lai là bậc Tối thượng không có người ngang hàng. “Một người, này các Tỷ-kheo, khi xuất hiện ở đời là xuất hiện một người, không hai, không có đồng bạn, không có so sánh, không có tương trợ, không có đối phần, không có người ngang hàng, không có ngang bằng, không có đặt ngang bằng, bậc Tối thượng giữa các loài hai chân. Một người ấy là ai? Chính là Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Một người này, khi xuất hiện ở đời, là xuất hiện một người, không hai, không có đồng bạn, không có so sánh, không có tương trợ, không có đối phần, không có người ngang hàng, không có ngang bằng, không có đặt ngang bằng, bậc Tối thượng giữa các loài hai chân” (Kinh Tăng chi bộ, phẩm Một người, phần Như Lai).
Như Lai là bậc Tối thượng vì Ngài đã thành tựu tám đức mà trong các hội chúng trời người không ai có thể thành tựu tám đức này. “Tỳ-kheo nên biết! Từ trước đến nay Ta đi vào trong chúng Sát-lợi, chúng Bà-la-môn, chúng Trưởng giả, chúng Sa-môn, chúng Tứ thiên vương, chúng trời Ba mươi ba, chúng Ma vương, chúng Phạm thiên vương, cùng họ chào hỏi nói năng đàm luận, Ta đi một mình không bạn bè, cũng không ai ngang hàng, ở trong ấy tối tôn, cũng không người sánh bằng. Ta ít muốn biết đủ, ý không lầm loạn, thành tựu giới, thành tựuchánh định, thành tựutrí tuệ, thành tựugiải thoát, thành tựuđa văn, thành tựutinh tấn. Bấy giờ, trong tám bộ chúng, Ta đi riêng một mình không bạn bè, vì bao chúng sanh làm tàng che lớn. Khi ấy tám bộ chúng không thể thấy đảnh, cũng không dám nhìn mặt, huống gì cùng luận nghị. Vì sao? Vì Ta cũng không thấy trong cõi Trời, cõi Người, trong chúng Ma hoặc Thiên ma, chúng Sa-môn, Bà-la-môn có ai có thể thành tựutám pháp này, trừ Như Lai không kể” (Kinh Tăng nhất A-hàm, phẩm 42.Bát nạn).
Như Lai, bậc Thế Tôn, được tôn quý ở đời không chỉ vì Ngài xuất hiện là “sự xuất hiện của mắt lớn, là sự xuất hiện của đại quang, là sự xuất hiện của đại minh, là sự xuất hiện của sáu vô thượng, là sự chứng ngộbốn vô ngại giải, là sự thông đạt của nhiều giới, là sự thông đạt của các giới sai biệt, là sự chứng ngộ của minh và giải thoát, là sự chứng ngộ quả Dự lưu, là sự chứng ngộ quả Nhất lai, là sự chứng ngộ quả Bất lai, là chứng ngộ quả A-la-hán (Kinh Tăng chi bộ), mà Ngài còn là bậc ngôn hành hợp nhất, nói sao thì làm vậy, làm sao thì nói vậy.
Kinh Trường bộ (số 19, kinh Đại điển tôn) ghi: “Thế Tôn nói gì thời làm vậy, làm gì thời nói vậy. Một vị nói gì thời làm vậy, làm gì thời nói vậy, thành tựu các pháp và tùy pháp như vậy, một vị đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá khứ cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn”. Kinh Trường bộ (số 29, kinh Thanh tịnh) ghi: “Này Cunda, trong thời gian giữa đêm Như Laichứng ngộVô thượng Chánh Đẳng Giác và đêm Như Lai nhập Vô dư y Niết-bàn giới, trong thời gian ấy, những gì Như Lai nói trong khi thuyết giảng, nói chuyện hay trình bày, tất cả là như vậy chớ không gì khác. Do vậy mới gọi là Như Lai. Này Cunda, Như Lai nói gì thời làm vậy, làm gì thời nói vậy; nói gì thời làm vậy, làm gì thời nói vậy nên được gọi là Như Lai”. Kinh Tăng chi bộ(chương IV Pháp, phẩm Uruvela, phần Thế giới) cũng ghi nhậntương tự: “Này các Tỳ-kheo, Như Lai nói gì thì làm vậy, làm gì thì nói vậy. Vì rằng nói gì thì làm vậy, làm gì thì nói vậy, nên được gọi là Như Lai”.
Như Lai được trời người tôn kính bằng công hạnhhết sức giản dị và chân thật, đó là “nói gì thì làm vậy, làm gì thì nói vậy”. Như Lai đã tu hành, giác ngộgiải thoát và nói ra kinh nghiệmquý báu về con đườngdiệt khổ của chính mình. Thật lạ lùng là điều tưởng chừng như đơn giản “nói gì thì làm vậy, làm gì thì nói vậy” mà “chúng ta thật khó tìm thấy trong quá khứ cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn”.
Vậy nên chăng, hàng hậu thế học theo Đức Phậtchúng ta khoan nói về Tam minh, Lục thông, Tứ vô sở úy, Thập vô ngại giải, … mà ta chỉ cần nhớ ghi và thực hành hạnh đức “nói gì thì làm vậy, làm gì thì nói vậy”. Từ đời sốngtu hànhcho đến hoằng dương giáo hóa, phụng sựtha nhân, hàng đệ tửchúng ta chỉ cần có được một phần hay nhiều phần của “ngôn hành hợp nhất” như Đức Phật thôi cũng đã quý hóa lắm rồi.
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầmvinh nhục.
Vấn đềthế giớiđịa ngục là vấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giớiđịa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giớiđịa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
Vấn đềtụng niệm một số người không nắm được giá trị và nghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô sốthế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám pháđạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phávô cùnglý thú.
“Nói Thiền tôngViệt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩathâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thờigiữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cảivật chất nên đời sốngphụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồtại gia.
Kinh Kim CangBát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
Trong khi thế giới đang có nhiều biến độngphức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức PhậtThích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tạichúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giớiBồ Tát hay không.
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.