Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

An Lạc Ở Đâu?

05 Tháng Bảy 202019:47(Xem: 4615)
An Lạc Ở Đâu?
An Lạc Ở Đâu?

Hoàng Anh Sướng

An Lạc Ở Đâu

“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,  Thiền sư Thích Nhất Hạnh nói.

Năm 2013, tôi may mắn được theo chân Thiền sư Thích Nhất Hạnh suốt mấy tháng trong chuyến hoằng dương đạo Phật dọc nước Mỹ. Chi tiết về chiếc đồng hồ được Thầy chia sẻ trong buổi đón tiếp long trọng của Tổng giám đốc Ngân hàng Thế giới Jim Yong Kim tại trụ sở của họ, ở Washington DC. Trong khán phòng đã đón các chính khách hàng đầu thế giới như Tổng thống Bill Clinton, bà Hillary Clinton, ông Tony Blair, ông Al Gore, ông Ban Ki Mon và nhiều nhà kinh tế, khoa học hàng đầu nhân loại, ông Jim Yong Kim hỏi Thầy: "Làm thế nào để tránh được stress, bị công việc thúc đẩy đúng hẹn?".

Thiền sư bảo: "Hạnh phúc là tại tâm. Đỉnh cao là ước vọng khó mang tính định lượng. Người ta chỉ có thể chọn một trong hai: hoặc hạnh phúc hoặc là số một. Hôm qua là quá khứ, không thể kéo lại được, ngày mai là tương lai chưa chắc chắn. Vì thế, chỉ hiện tại mới quan trọng".

Ông Jim Yong Kim là người rất mến mộ Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Ông đã đọc rất nhiều sách của Thầy và đã thực hành chánh niệm nhiều năm. Lần này, mời Thiền sư Thích Nhất Hạnh đến trụ sở, ông Jim Yong Kim muốn xin ý kiến của Thiền sư trong việc ứng dụng chánh niệm để sống và làm việc tốt hơn, không chỉ cho mình mà toàn thể nhân viên. Buổi gặp gỡ diễn ra trong vòng hai tiếng và được truyền hình trực tiếp đến tất cả các chi nhánh của Ngân hàng Thế giới toàn cầu. Người nghe vô cùng thán phục sự uyên báctâm từ của Thiền sư.

Tôi vẫn nhớ như in buổi nói chuyện của Thầy tại sảnh khách sạn Boston Park Plaza do Đại học Harvard tổ chức. Hơn 1.200 khán giả gồm đông đảo giới mộ điệu nước Mỹ, trong đó có cả gia đình cố Tổng thống Mỹ John F.Kennedy. Điều đó cũng cho thấy phần nào tảng băng chìm trong đời sống tinh thầntâm linh nước Mỹ. Người Mỹ đang phải đối diện với những khổ đau, căng thẳng, âu lo và sợ hãi. Dường như chính họ cũng đang bế tắc trong việc truy tìm bến bờ hạnh phúc, an lạc.

Một bác sĩ tâm lý trị liệu tham dự buổi nói chuyện tâm sự với tôi: "Tôi đã tư vấn, trị liệu thành công cho hàng ngàn bệnh nhân mắc bệnh trầm cảm, u uất, đau khổ. Nhưng chính tôi nhiều lúc cũng bị căng thẳng, lo sợ, hoang mang. Tôi đến đây là để nghe một trong những vị Thiền sư danh tiếng nhất thế giới nói về phương pháp chánh niệm để vận dụng trong công việc tâm lý trị liệu. Song trước tiên, tôi muốn trị liệu tâm lý cho chính mình".

Buổi thuyết pháp của Thầy sau đó tại nhà thờ lớn nhất của thành phố Boston. Hơn 4.000 ghế ngồi trong nhà thờ đã không còn một chỗ trống. Nhiều người đến muộn, phải ngồi bệt xuống thềm. Trên vòm giáo đường, tượng chúa Jesus giang tay cứu thế lồng lộng, bên dưới, Thiền sư Thích Nhất Hạnh của Việt Nam nhỏ bé, mảnh khảnh trong bộ nâu sòng nói về đạo Phật với giọng điệu nhẹ nhàng, thong dong. "Ai trong chúng ta cũng chẳng có ít nhiều khổ đau. Nhiều người thường sợ phải đối diệnchìm đắm trong biển khổ đau của mình nên tìm mọi cách trốn chạy. Đọc sách báo, xem phim bạo lực, uống rượu, dùng ma túy... hoặc vùi đầu trong công việc chồng chất.

Chúng ta không biết làm cách nào để đối diệnchuyển hóa những khổ đau. Chính vì điều này mà trong Kinh Quán niệm hơi thở, Bụt khuyên chúng ta trở vềnhận diện những khổ đau trong ta. Nếu chúng ta biết cách thực tập hơi thởý thức, thực tập đi chánh niệm, lái xe chánh niệm và ăn chánh niệm mỗi ngày thì năng lượng chánh niệm trong ta sẽ đủ mạnh để giúp ta trở về, ôm ấp, vuốt ve những lo lắng, sợ hãi, buồn khổ trong lòng. Và chỉ vài phút sau, những niềm đau, nỗi khổ sẽ vơi đi rất nhiều.

Giống như một bà mẹ bỗng nghe tiếng con khóc. Bà sẽ chạy đến, ôm đứa con vào lòng với tất cả trìu mến. Bà mẹ chưa biết chuyện gì xảy ra với đứa bé, nhưng cử chỉ yêu thương ấy sẽ làm cho nó hết khóc, hết khổ ngay lập tức. Năng lượng chánh niệm cũng vậy. "Chúng ta chưa biết gốc rễ của những niềm đau, nỗi khổ trong ta nhưng nếu ta ôm lấy niềm đau ấy một cách dịu dàng với năng lượng chánh niệm, ta có thể làm dịu đi nhanh chóng cơn đau nhức ấy", cả giáo đường im phăng phắc, nuốt từng lời. Lòng tôi rạo rực. Một thầy tu người Việt Nam nói chuyện về đạo Phật trong nhà thờ cho hơn 4.000 con chiên nghe. Kỳ lạ quá và đáng tự hào cho người Việt Nam lắm chứ.

Sau đó, tại trụ sở của Google, Yahoo và những tập đoàn khổng lồ của nước Mỹ, vị sư nhỏ bé người Việt từ tốn giảng về chánh niệm cho hàng nghìn nhân viên, chỉ cho họ giảm bớt căng thẳng, phát huy nhiều hơn nữa sự sáng tạolòng từ bi. Và nhiều, nhiều lắm những khóa tu cho các thượng nghị sĩ, doanh nhân, nghệ sĩ, giáo viên từ khắp nước Mỹ, họ đến tham dự khóa tu của Thầy và đã được chuyển hóa. Nhiều người đến khóa tu nặng gánh buồn đau, tuyệt vọng. Nhưng chỉ sau 5, 6 ngày, họ đã vượt qua được niềm đau, nỗi khổ, tìm lại niềm vui sống giữa đời.

Vì sao người Mỹ lại theo học Thiền sư Thích Nhất Hạnh đông như vậy? Theo tôi, sở dĩ người Tây phương theo Thầy học hỏi, thực tập nhiều vì Thầy không hiến tặng cho họ đạo Phật của đức tin, của cầu nguyện, của "dâng sao giải hạn" mà hiến tặng cho họ đạo Phật của sự thực tập kinh nghiệm. Bởi Đức Phật không phải là một đấng tạo hóa hay một vị thần linh mà đích thực là một con người, một người giác ngộ (knower), tỉnh thức và có tuệ giác cao siêu nhờ tu tập.

Đạo Phật là một lối sống nương vào tự thân mỗi cá nhân hơn là nương vào quyền lực linh thiêng bên ngoài, không có giáo điều, không mặc khải, không xung đột báng bổ với bất cứ một truyền thống tâm linh nào. Và trong bản chất đích thực của nó cũng không xung đột với khoa học hiện đại, như nhiều kết luận của giới khoa học. Tu tập theo chánh niệm, người ta sẽ thấy trí tuệlòng từ bi nảy nở, nhờ thế mà thân, tâm ta được an yên.

Suốt mấy chục năm qua, ở Tây phương, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã xướng xuất phong trào Phật học ứng dụng. Hạnh phúcan lạc, không an thì không lạc, an trong thân và trong tâm. Nếu con người chứa chất quá nhiều sự căng thẳng, ham muốn, thân không an thì tâm sao an được? Trong khi đó tâm có những cảm giác, cảm xúc như giận hờn, tuyệt vọng, bạo động, nếu khôngphương pháp cụ thể thì làm sao nhận diệnchuyển hóa được những bất an của tâm?

Trong các khóa tu, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã dạy cho người Mỹ những phương pháp cụ thể để làm lắng dịu những căng thẳng trong thân, trong tâm, rồi nhìn sâu để xem gốc rễ của những khổ đau phiền não đó do đâu. Từ sự tự nhận ra chính mình, họ mới bắt đầu chuyển hóa được những tâm hành. Đó thực raphương pháp rất gần với khoa học điều trị tâm bệnh hiện đại. Đó cũng là lý do tại sao phương pháp thực tập chánh niệm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã trở nên nổi tiếng khắp thế giới nhờ sự thực hành đơn giản nhưng kết quả lại vô cùng sâu sắc.

Ở Mỹ nói riêng và trong thế giới hôm nay, lòng người còn đang hỗn loạn, niềm tin trở nên mong manh, các giá trị bị gán nhiều ngờ vực. Chỉ cần đem tâm trở về với thân bằng cách chú ý đến hơi thở, chú tâm vào những hành động nhỏ hàng ngày, lắng nghe cuộc sống với trái tim từ bitỉnh thức; ta có thể từ từ chuyển hóatrị liệu những vết thương trong mình và cả cho người khác bằng tâm từ và tâm thương yêu.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(Xem: 173)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 204)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 225)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 292)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 206)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 255)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 358)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 321)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 304)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 392)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 615)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 478)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 484)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 582)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 754)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 840)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 859)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 846)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 737)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 712)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 715)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 815)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 835)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 942)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 718)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 618)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 715)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 828)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 718)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 709)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 825)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 852)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 827)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 865)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 902)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 889)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1088)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 953)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1676)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1067)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1211)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 956)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1215)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1118)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1125)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1281)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1562)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2037)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1097)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1356)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1098)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 947)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1066)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1101)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1536)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1288)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1295)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1027)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant