Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sự Xuất Hiện Của Vũ Trụ Theo Kinh Hoa Nghiêm

10 Tháng Giêng 202219:56(Xem: 2643)
Sự Xuất Hiện Của Vũ Trụ Theo Kinh Hoa Nghiêm

Sự Xuất Hiện Của Vũ Trụ Theo Kinh Hoa Nghiêm

Nguyễn Thế Đăng

Duyên Tam Bảo 


Thế giới
chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm, hay còn gọi là “Thế giới Hoa tạng hải”, hay còn gọi là pháp giới. Tất cả các thế giới xuất hiện của phàm và của thánh đều nằm trong Hoa tạng thế giới hải:

Bấy giờ Đại Bồ tát Phổ Hiền do thần lực Phật, quán sát khắp tất cả thế giới hải, tất cả chúng sanh hải, tất cả chư Phật hải, tất cả pháp giới hải, tất cả chúng sanh nghiệp hải, tất cả chúng sanh căn dục hải, tất cả chư Phật pháp luân hải, tất cả tam thế hải, tất cả Như Lai nguyện lực hải, tất cả Như Lai thần biến hải.

Trí huệ công đức biển rất sâu
Hiện khắp mười phương vô lượng cõi
Tùy các chúng sanh chỗ hợp thấy
Ánh sáng soi khắp chuyển pháp luân…

(Phẩm Thế giới thành tựu thứ 4).

Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu vũ trụ xuất hiện trên nền tảng gì và sự xuất hiện ấy thực sự là gì, theo phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ 1 của Kinh Hoa Nghiêm.

 

1/ Ánh sáng vô ngại là nền tảng cho vũ trụ xuất hiện.

Kinh mở đầu bằng diễn tả quang cảnh pháp hội diễn ra ở Bồ đề đạo tràng như sau:

Như vậy tôi nghe, một thời Phật ở nước Ma Kiệt Đề trong pháp thanh tịnhđạo tràng Bồ đề, vừa thành Vô thượng Giác ngộ. Nơi đó đất cứng chắc, làm bằng kim cương, trang nghiêm bằng các luân báu, các hoa báu, ngọc ma ni thanh tịnh. Biển các sắc tướng vô biên hiển hiện, ngọc ma ni làm tràng phướn thường phóng ánh sáng, hằng vang tiếng vi diệu. Các lưới báu, tràng hoa thơm giăng rủ chung quanh. Ma ni bửu vương biến hiện tự tại, mưa vô tận các châu báu và hoa đẹp rải khắp mặt đất. Các cây báu thành hàng, cành lá tốt tươi tỏa sáng.

Do thần lực Phật khiến cho trong đạo tràng này tất cả sự trang nghiêm được ảnh hiện.

Cây Bồ đề cao lớn lạ thường, kim cương làm thân, lưu ly làm cành, nhánh bằng nhiều chất báu tốt đẹp, lá báu giăng che như mây, hoa báu đủ màu, phân nhánh tủa ra, trái bằng ngọc ma ni ngậm chứa ánh sáng, cùng hoa xen bày. Cây Bồ đề phóng ánh sáng khắp chung quanh, trong ánh sáng mưa xuống ngọc quý ma ni, trong ngọc ma ni có các Bồ tát như mây đồng thời xuất hiện. Lại do thần lực Như Lai, cây Bồ đề này thường vang tiếng vi diệu thuyết tất cả pháp khôngcùng tận”.

Đoạn kinh mở đầu này cho thấy quang cảnh đạo tràng Bồ đề, nơi Phật vừa giác ngộ. Toàn thể cảnh vật được bao trùm bởi ánh sáng (quang minh) qua mỗi sự vật được tạo thành bằng những chất quý báu, đều tỏa ánh sáng (phóng quang), ánh sáng từ trong mỗi sự vật. Mỗi sự vật đều làm bằng chất quý báu, bằng kim cương, lưu ly, ngọc ma ni… đều phóng ánh sáng, nghĩa là mỗi sự vật đều có tinh chất, tinh túy (essence) là ánh sáng.

Chính trong quang cảnh ánh sáng thường hằng ấy mà mọi sự xuất hiện, kể cả các Bồ tát. Đoạn kinh mở đầu này có nhiều chữ hiện: “biển các sắc tướng vô biên hiển hiện”, “các Bồ tát như mây đồng thời xuất hiện”, “do thần lực Phật khiến cho trong đạo tràng này tất cả sự trang nghiêm được ảnh hiện”.

Ánh sáng thường hằng ấy là ánh sáng nền tảng, nhưng ánh sáng nền tảng ấy không làm mất các ánh sáng của từng sự vật, cho nên các sự vật vẫn được “ảnh hiện”. Ảnh hiện là “biển các sắc tướng vô biên hiển hiện”, mỗi sắc tướng đều được hiển hiện bằng ánh sáng riêng của nó trên nền tảng ánh sáng “thường hằng”, không trộn lẫn, không hòa thành một ánh sáng duy nhất. Bởi vì nếu chỉ có một ánh sáng duy nhất thì sẽ không có sự xuất hiện của vũ trụ với vô vàn sắc tướng khác biệt.

 

Phật của Kinh Hoa NghiêmPhật Pháp thân Tỳ Lô Giá Na (Vairocana), được dịch là Đại Nhật, Phổ Quang Minh, Quang Minh Biến Chiếu, Đại Quang Minh Tạng, những danh hiệu này lấy từ Kinh Hoa Nghiêm. Một tính chất của Phật Tỳ Lô Giá Naquang minh (ánh sáng):

Như Lai thân phóng đại quang minh

Quang chiếu pháp giới đều đầy khắp.

(Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ 1)

Như vậy chính trong và trên nền tảng ánh sáng Phật mà biển các sắc tướng vô biên hiển hiện, tất cả sự trang nghiêm được ảnh hiện. Ảnh hiện là hiện bóng. Trong ánh sáng Phật, sự vật không còn là vật chất, cứng đặc, mà là hiện bóng. Trong tấm gương sáng của Đại Viên Cảnh Trí, tất cả mọi sự vật đều hiện bóng trong đó. Trong tấm gương sáng Đại Viên Cảnh Trí, trong Phật Tỳ Lô Giá Na, tất cả mọi sự vật không còn bị trói buộc trong tính vật chất nặng nề cứng đặc mà là ảnh hiện của ánh sáng, do đó chúng tự do, giải thoát. Giải thoát trong ánh sáng.

 

2/Các Bồ tát trong đạo tràng Bồ đề

Kinh nói tiếp:

Cung điện lâu đài chỗ ở của Như Lai rộng rãi trang nghiêm đầy khắp mười phương. Các ngọc ma ni nhiều màu hợp thành, đủ thứ hoa đẹp, những đồ trang nghiêm tuôn ánh sáng như mây, hợp ảnh thành bảo tràng trong cung điện.

Vô biên Bồ tátchúng hội đạo tràng đều họp lại nơi đó, nhờ năng lực của chư Phật mà xuất hiện ánh sáng và âm thanh chẳng thể nghĩ bàn. Ma ni bảo vương kết thành lưới. Lực thần thông tự tại của Như Lai khiến tất cả cảnh giới đều từ trong lưới báu mà xuất hiện, tất cả chúng sanh và nhà cửa nơi chốn đều hiện hình bóng trong đó. Lại do thần lực của chư Phật gia trì, trong khoảnh khắc một niệm, tất cả pháp giới đều bao gồm trong lưới.

Tòa sư tử cao rộng tốt đẹp kỳ diệu: đài bằng ma ni, lưới bằng hoa sen, vòng quanh bằng ngọc báu đẹp đẽ thanh tịnh. Các hoa đủ màu thành kết thành tràng. Cung điện, mái vòm, các cửa, bậc thềm, hình thể trang nghiêm hoàn thiện. Cây, cành, quả báu bao quanh xen bày. Mây ánh sáng ma ni chiếu soi lẫn nhau: chư Phật mười phương hóa hiện nơi châu vương. Bảo châu vi diệu trong búi tóc đỉnh đầu của tất cả Bồ tát đều phóng quang minh soi sáng mọi sự. Lại do oai thần của chư Phật hộ trì, diễn nói cảnh giới rộng lớn của Như Lai, diệu âm vang xa không chỗ nào chẳng đến”.

 

Trong cung điện lâu đài chỗ ở của Phật, mọi sự đều đẹp đẽ, trang nghiêm, hoàn thiện, và mọi sự đều phóng ánh sáng soi chiếu lẫn nhau, mọi sự đều ảnh hiện lẫn nhau. “Hợp ảnh” nghĩa là các ảnh trùng trùng soi chiếu, phản ảnh lẫn nhau.

Quang cảnh chung quanh là y báo. Y báo ấy được sự gia trì, hộ trì bằng chánh báo, tức là sự giác ngộ hoàn toàn bản tánh của tất cả các pháp (pháp tánh). Sự gia trì, hộ trì của chánh báo giác ngộ là ánh sáng làm nền tảng cho mọi sự xuất hiện.

Vũ trụ xuất hiện trong lưới báu kết bằng vô số ngọc, tất cả ảnh hiện lẫn nhau trùng trùng vô tận: “Lại do thần lực của chư Phật gia trì, trong khoảnh khắc một niệm, tất cả pháp giới đều bao gồm trong lưới”.

Với một vị Phật đã hoàn toàn chứng đắc Pháp thân và những đại Bồ tát Pháp thân, nghĩa là chứng một phần trong Mười Địa Pháp thân, vũ trụ hay pháp giới xuất hiện như những ảnh hiện trong lưới ngọc phát sáng trùng trùng phản chiếu lẫn nhau.

Tất cả cảnh giới của chư Phật và chúng sanh, tất cả pháp giới đều hiện trong lưới báu, và sự việc ấy được gọi là “hóa hiện”: “Chư Phật mười phương hóa hiện nơi chân vương”. Pháp giới là sự hóa hiện của Phật Pháp thân Tỳ Lô Giá Na, pháp giớiHóa thân vô số không thể nghĩ bàn của Phật Pháp thân Tỳ Lô Giá Na:

Những cây ma ni bằng chất báu
Mỗi chất báu đều phóng quang minh
Tỳ Lô Giá Na thanh tịnh thân
Hiện vào trong đó đều khắp thấy.
Trong những trang nghiêm hiện thân Phật
Sắc tướng vô biên vô lượng số
Đi đến mười phương khắp mọi nơi
Hóa độ chúng sanh cũng vô lượng.

(Phẩm Hoa Tạng thế giới thứ 5).

3/ Đức Phậtđạo tràng Bồ đề

Hai đoạn Kinh trên nói về đạo tràng Bồ đề và các đại Bồ tát, đoạn kinh tiếp theo sau nói về Đức Phật.

Bấy giờ, Thế Tôn ở nơi tòa này, thành tựu Giác ngộ tối thượng đối với tất cả pháp: trí chứng nhập ba đời đều bình đẳng, thân Phật đầy khắp tất cả thế gian, tiếng Phật thuận vào khắp mười phương các cõi nước. Ví như hư không bao gồm tất cả sắc tượng, nơi tất cả cảnh giới không chỗ phân biệt. Lại như hư không toàn khắp tất cả, bình đẳng nhập vào tất cả cõi nước. Thân Phật hằng ngồi tòa khắp trong tất cả đạo tràng, oai quang sáng rỡ trong chúng Bồ tát, như mặt trời mọc chiếu sáng thế giới. Biển lớn phước đức thực hành trong ba đời đều đã thanh tịnh nhưng thường thị hiện sanh vào cõi nước chư Phật. Vô biên sắc tướng đầy đủ ánh sáng cùng khắp pháp giới bình đẳng không sai khác, diễn nói tất cả pháp như bủa mây lớn.

Mỗi mỗi đầu sợi lông đều có thể dung chứa tất cả thế giới mà không có chướng ngại. Đều hiện vô lượng thần thông lực giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh. Thân khắp mười phương mà không đến, đi. Trí vào tất cả tướng, rõ tất cả pháp là không tịch. Thần biến của chư Phật ba đời đều thấy trong ánh sáng. Tất cả sự trang nghiêm của tất cả cõi Phật trong vô số kiếp đều được hiển hiện”.

Ở đây Kinh nói cho chúng ta biết sự thành tựu Giác ngộ Tối thượng của đức Phật Thích Ca như thế nào để chúng ta có thể học, nghiên cứu (Văn). Từ cái hiểu biết dù chỉ ở mức độ thức thứ sáu là ý thức, chúng ta có thể phát khởi sự hâm mộ, lòng sùng tín, quyết tâm, làm động lực ban đầu để đi trên con đường Phật đạo.

Cái học, cái hiểu ấy càng rõ ràng thêm khi chúng ta tư duy sâu sắc về sự Giác ngộ của Phật khiến có thêm niềm tin, sự chắc thật để thực hành thiền định thiền quán (Tu) và dần dần tiếp cận sự thật mà đức Phật đã giác ngộ như chư Phật đã giác ngộ. Sự giác ngộ ấy là giác ngộ hoàn toàn Pháp thân, mà các kinh điển đều nói là “Pháp thân của tất cả chư Phật”, nghĩa là Pháp thân là chung cho tất cả chư Phật. 

“Giác ngộ tất cả pháp” là gì? Là biết rõ, biết trọn vẹn bản tánh của tất cả các pháp là tánh Không, đồng thời biết rõ sự khác biệt của tất cả những hiện tướng của tất cả các pháp. Đây là điều các Kinh nói, “thấu rõ tánh, tướng của tất cả các pháp”.

Do giác ngộ tất cả các pháp nên “thân Phật đầy khắp tất cả thế gian, tiếng Phật thuận vào khắp mười phương các cõi nước”. Khi giác ngộ thì thân, khẩu, ý trở thành Pháp thân và do đó trùm khắp vũ trụ, pháp giới, “tiếng Phật vào khắp tất cả cõi nước”. Pháp thântánh Không, nên “như hư không, toàn khắp tất cả, bình đẳng nhập vào tất cả cõi nước”.

Tánh Khôngquang minh, ánh sáng, vốn không hai, nên khi là Pháp thân tánh Khôngnhư hư không toàn khắp tất cả, bình đẳng nhập vào tất cả các cõi nước” thì “thân Phật thường ngồi tòa trong tất cả đạo tràng, oai quang sáng rỡ trong chúng Bồ tát, như mặt trời mọc chiếu sáng thế giới”.

Bồ tát đạo bắt đầu từ Tư Lương vị, thực hành hai sự tích tập phước đứctrí huệ, cho đến khi thành Phật thì hai sự tích tập phước đứctrí huệ đầy đủ trọn vẹn, nên Phật được xưng là Lưỡng Túc Tôn (bậc hai sự tích tập đã đầy đủ). Thế nên, “biển lớn phước đức thực hành trong ba đời đều đã thanh tịnh nhưng thường thị hiện sanh vào cõi nước chư Phật”. Phước đứctrí huệ tròn đủ, tức là Ba thân, Pháp thân, Báo thânHóa thân thành tựu hoàn toàn, nên “vô biên sắc tướng đầy đủ ánh sáng cùng khắp pháp giới bình đẳng không sai khác, diễn nói tất cả pháp như bủa mây lớn”.

Trong các Kinh Đại thừa, thỉnh thoảng có nói đến cảnh giớisự sự vô ngại” của các Đại Bồ tát và chư Phật, nhưng chỉ qua một hai trang. Riêng Kinh Hoa Nghiêm, toàn bộ Kinh xiển dương cảnh giới sự sự vô ngại, ngay đoạn mở đầu của Kinh chúng ta đã thấy nói đến cảnh giới sự sự vô ngại: “Mỗi mỗi đầu sợi lông đều có thể dung chứa tất cả thế giới mà không có chướng ngại”.

Sự sự vô ngại của Phật là sự vô ngại của Ba thânpháp giớiBa thân vô ngại với nhau. Pháp thântánh Không: “Thân khắp mười phương mà không đến, đi. Trí vào tất cả tướng, rõ tất cả các pháp là không tịch”. Báo thân là ánh sáng: “Thần biến của chư Phật ba đời đều thấy trong ánh sáng”. Hóa thânnăng lực hóa hiện: “Thường thị hiện sanh vào cõi nước chư Phật. Đều hiện vô lượng thần thông lực giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh. Thần biến của chư Phật ba đời đều thấy trong ánh sáng.”

Như thế, vũ trụ của người bình thường trở thành pháp giới, là sự biến hiện trang nghiêm của Ba thân Phật: “Tất cả sự trang nghiêm của tất cả cõi Phật trong vô số kiếp đều được hiển hiện”.

Đó cũng là ý nghĩa của Kinh Hoa Nghiêm, tức là “trang nghiêm bằng hoa”, và tất cả các hoa “sự sự vô ngạivới nhau, trùng trùng ảnh hiện, hợp ảnh lẫn nhau.        

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 145)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 195)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 217)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 284)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 196)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 245)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 305)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 267)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 297)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 373)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 606)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 464)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 482)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 574)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 752)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 833)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 854)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 840)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 731)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 710)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 714)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 813)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 833)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 939)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 715)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 613)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 708)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 824)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 711)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 707)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 823)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 850)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 826)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 863)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 893)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 886)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1077)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 952)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1662)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1066)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1210)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 955)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1211)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1115)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1123)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1277)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1558)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2032)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1096)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1352)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1097)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 947)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1063)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1097)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1534)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1286)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1289)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1022)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1181)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant