Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Làm Thế Nào Để Bắt Đầu Thực Hành Pháp

15 Tháng Giêng 202220:20(Xem: 2868)
Làm Thế Nào Để Bắt Đầu Thực Hành Pháp
Làm Thế Nào Để Bắt Đầu Thực Hành Pháp

Song Rinpoche
Minh Hằng

buong bo

HH. Song Rinpoche (1905 - 1984) sinh ra tại Kham, Tibet, học tại tu viện Ganden, nổi tiếng là một geshe uyên bác và là tu viện trưởng ở đây trong 9 năm. Sau đó, ngài sang Ấn Độ và là hiệu trưởng Học viện Nghiên cứu Tây Tạng Cao Cấp tại Sarnath. Rinpoche ban hướng dẫn nhập môn này vào ngày đầu tiên của khoá học hai tuần về Đại Thừa Chuyển Tâm tại Camp Kennolyn, Soquel, California, 20/05/1978 trong chuyến hoằng pháp đầu tiên của ngài tới phương Tây. Lama Zopa Rinpoche dịch trực tiếp tại pháp hội. Minh Hằng dịch Việt

---o0o---


THỰC HÀNH PHÁP LÀ SỰ LỰA CHỌN CÁ NHÂN

Nói chung, với tư cách cá nhân, tùy bạn có muốn thực hành Pháp hay không. Đó không phải là điều gì bạn có thể bị buộc phải làm – trừ philuật pháp sở tại, trong trường hợp này mọi người phải thực hành. Mặc dù thế, đó không phải là thực hành Pháp thực sự bởi vì tuân theo luật pháp sở tại nên được thực hiện chỉ cho đời này. 

Nếu bạn chỉ sống cho đời này, bạn không giúp ích cho các đời sau của bạn, trong khi thực hành Pháp, bạn mang lại hạnh phúc không chỉ cho tất cả các đời sau mà còn cho cuộc sống hiện tại của bạn nữa. 

Tuy nhiên, bạn phải tìm thấythực hành chánh Pháp; nếu bạn thực hành tà Pháp, cho dù bạn thực hành nó bao nhiêu, bạn cũng lãng phí cả cuộc đời của mình. 

Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó. Nhiều tôn giáo khác nhau đã xuất hiện trên Địa cầu này nhưng Pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ban hạnh phúclợi ích lúc bắt đầu, ở giữa và cuối cùng. Nhân của Pháp là công đức, Pháp dẫn đến công đức, Pháp tạo công đức mọi lúc và, do đó mang lại lợi ích liên tục

Từ lúc bắt đầu, Phật Pháp lan rộng khắp Ấn Độ và sau đó sang Tây Tạng. Những ngày này, vì tình thế bất lợi, Pháp đang truyền bá lại trong Ấn Độ và thậm chí xa hơn. Tôi sử dụng từ “bất lợi” bởi vì tình thế mà tôi đang nói đến là tình thế đã diệt trừ Phật giáoTây Tạng. Tuy nhiên, vì cùng tình thế này đã giúp Pháp truyền bá đến các nước khác, từ cách nhìn đó có lẽ chúng không quá bất lợi

Bạn nên làm gì khi bạn gặp Pháp? Đầu tiên bạn nên lắng nghe, sau đó hãy cố hiểu ý nghĩa và cuối cùng thiền định. Nếu bạn thực hành theo cách đó, bạn có thể đạt thành giác ngộ

Có hai lý do để lắng nghe [hoặc đọc] những giáo lý; một là đơn giản đạt được hiểu biết trí tuệ, hai là biết cách để thực hành. Nếu bạn thực hành Pháp, sẽ giũ sạch các ý tưởng tiêu cực phiền nãochuyển hóa tâm bạn; thay đổi tâm tốt hơn. Điều này mang lại hạnh phúc cho bạn trong đời này và các đời sau

Nếu bạn lắng nghe [hoặc đọc] Pháp để đạt được hiểu biết trí tuệ nhưng không đưa các giáo lý mà bạn nghe vào thực hành thì bạn không giúp ích cho tâm nhiều đâu. Tuy nhiên, vì những gì bạn đang lắng nghe là Phật Pháp nên có lợi ích nào đó – nghe giáo lý để lại dấu ấn trong thức của bạn; nó gieo mầm trong tâm bạn. Sau đó, trong đời sau, bạn có thể sẽ dễ dàng hiểu và nhận biết Pháp hơn. 

Do đó, nếu bạn đang lắng nghe [hoặc đọc] giáo lý để hiểu và thiền định về chúng, điều đó thật tuyệt hảo, nhưng dù thế nếu bạn chỉ cố đạt hiểu biết trí tuệ, điều đó cũng tạo phước đức rộng lớn và là nhân cho hoan hỷ. Dù bất cứ động cơ thúc đẩy của bạn nghĩ về Pháp là gì thì bạn nên cảm thấy “Tôi thật may mắn làm sao!”. 

chúng ta gặp Pháp trong thời mạt pháp này, điều vô cùng quan trọng là chúng ta đừng để lỡ cơ hội này. Một khi chúng ta bắt đầu thực hành, điều thiết yếu là bạn không chỉ tiếp tục thực hành như vậy mà còn hoàn thành sự thực hành của mình. Đầu tiên hãy thử hiểu các giáo lý, sau đó thử thực hiện những gì bạn hiểu có lợi nhất có thể cho các chúng sanh khác.  

Để Pháp mở rộng trong tâm, bạn phải tìm được một vị đạo sư phẩm hạnh hoàn hảo. Những ngày này, số các tăng sĩ, cao tăng (gesh), và Lama uyên bác bên ngoài Tây Tạng nhiều hơn tại Tây Tạng

Điều mà chúng ta gọi là Pháp là liều thuốc trị tâm, thay đổi từ tâm bất phục, trạng thái trước Pháp sang tâm tốt đẹp hơn. Từ thuở vô thủy, tâm chúng ta đã bị hoen ố, mơ hồ, nhiễm ôphiền não bởi tam độc của vô minh, tham đắm và giận dữ bởi vì chúng ta vừa không hiểu biết vừa không thực hành giáo lý. Pháp là liều thuốc thay đổi phần nào tâm đó cho tốt đẹp hơn.


TÁI SINH

Không chỉ Phật giáotôn giáo giảng về tái sinh. Chẳng hạn ở Ấn Độ cổ, đã có nhiều tín ngưỡng phi Phật giáo tin vào sự tái sinh. Nhưng một trong những tôn giáo này – Triết học duy vật khoái lạc (người theo chủ nghĩa khoái lạc), tri kiến của họ đặc biệt bị hạn chế – phủ nhận sự hiện hữu của tái sinh bởi vì họ tin rằng chỉ tất cả những gì mà họ có thể nhìn thấy bằng mắt mới hiện hữu. Đó là lập luận của họ: nếu bạn có thể thấy nó thì nó có; nếu bạn không thể thấy nó thì không có. Ngay cả người bình thường cũng cho rằng đây là một vô minh kiến, vô cùng hạn chế. Có nhiều thứ mà bạn không thể thấy – như sau lưng bạn, những thứ được chôn dưới lòng đất hoặc những gì người khác nghĩ – nhưng chúng vẫn hiện hữu

Có nhiều lý do chứng minh sự hiện hữu của các đời trước và đời sau, nhưng nếu bạn không nghiên cứu về các quảng kinh đi sâu vào những lý do này thì khó cho tôi giải thích chúng và khó cho bạn để hiểu. 

Tuy nhiên, vì bạn đã quan tâm thực hành Pháp rồi, nên cũng không bắt buộc tôi phải cố giải thích sự hiện hữu của tái sinh cho bạn. Dù sao đi nữa, số lượng các hiện tượng hiện hữuchúng ta không thể thấy thì vô cùng lớn hơn số mà chúng ta có thể thấy; về cơ bản không so sánh được. Những điều mà chúng ta không thấy hoặc nhận biết là không đếm xuể; kiến thức hiện tại của chúng ta gần như bằng không. Chỉ điều đó cho thấy hiểu biết chúng ta nhỏ bé biết mấy.


BẠN CẦN BIẾT ĐIỀU GÌ ĐỂ THỰC HÀNH PHÁP

Có lẽ điều tốt nhất mà bạn có thể làm khi thực hành Pháp là noi theo giáo lý về ba phạm vi của con đường tiệm tiến tới giác ngộ: con đường cho bậc hạ căn, trung căntối thượng căn. Bằng cách thực hành giáo lý, bạn có thể tạo ra ba phương diện chủ yếu của con đường – sự từ bỏ sinh tử luân hồi, bồ đề tâm, và chánh kiến của tánh không – điều này giúp bạn có đủ tư cách đi theo con đường tiệm tiến của mật chú thừa hay Kim Cương thừa

Tuy nhiên, điều chính mà bạn nên làm là rèn luyện tâm trong bồ đề tâm, bởi vì không làm điều này thì không có khả năng nhỏ nhất để đạt thành trạng thái giác ngộ cực lạc; bạn tuyệt đối phải dấn thân vào những thực hành cao cả của sự chuyển hóa ý tưởng Đại thừa. Nếu không rèn luyện bồ đề tâm, bạn thậm chí không được phép lắng nghe  mật điển (tantra), chưa nói đến đưa chúng vào thực hành. Và khi bạn bước vào mật đạo tantra, bạn nên giữ bí mật việc thực hành của mình; đó là lý do tại sao giáo lý mật điển cũng được gọi là mật chú

Không chỉ giáo lý về mật chú không thể được giảng giải đến những ai có tâm còn non nớt, không dễ lĩnh hội mà ngay cả giáo lý chuyển hóa ý tưởng Đại thừa vĩ đại cũng không nên truyền đạt cho những ai có tâm chưa sẵn sàng. Bạn không thể chỉ chạy vào trung tâm thành phố và trao chúng cho bất kỳ người qua đường. Thực tế, chúng chỉ nên được thuyết cho những học trò hỏi thầy của mình một cách thành khẩn về chúng. 

Nếu bạn muốn đạt thành giác ngộ, bạn cần phải thực hành tantra, và để làm điều đó, bạn cần phải rèn luyện tâm trong bồ đề tâm. Để rèn luyện trong bồ đề tâm, bạn cần phải thực hành sự chuyển hóa ý tưởng Đại thừa vĩ đại và để làm điều đó, bạn cần phải  thọ nhận các giáo lý về nó. Do vậy, bạn nên thành khẩn thỉnh thầy của bạn giảng dạy về các giai đoạn của con đường, đặc biệt về sự chuyển hóa ý tưởng. Sau đó, dù cho tâm của bạn chưa trở thành bồ đề tâm, nhưng gần đến bồ đề tâm, bạn có thể tiếp nhận sự khai tâmgiáo lý về mật chú, vô cùng có ích; điều này để lại một ấn tượng quan trọng trong tâm bạn. 

Trước khi bạn nhiếp thọ giáo lý về sự chuyển hóa ý tưởng Đại thừa vĩ đại, bạn cần phải nghiên cứu những giáo lý sơ bộ  về con đường tiệm tiến tới giác ngộ

Mục đích của Pháp là quy thuận tâm bạn, tu sửa những hành vi trong đời sống hàng ngày của bạn để chúng trở nên ích lợi. Cho nên, giáo Pháp là tấm gương phản ánh rõ ràng các hành vi của thân, khẩu và tâm để bạn có thể nhận định chúng là có ích lợi – nhân của hạnh phúc – hay là có hại – nhân của khổ đau.  

Từ vô thủy trong các đời trước, chúng ta đã nằm dưới sự khống chế của những ý tưởng tiêu cực phiền não, chúng thúc đẩy chúng ta luôn tạo ra những hành động tai hại, nghiệp tiêu cực, nhân của khổ đau mà không có chọn lựa. Kết quả, từ thuở vô thủy, chúng ta đã trải qua những khổ đau khác nhau của sinh tử luân hồi và thậm chí trong đời này, chúng ta tiếp tục chịu đựng như vậy. Từ lúc sinh ra, chúng ta không có được một ngày không có vấn đề

Nói cách khác, chúng ta bị bệnh; chúng ta là bệnh nhân. Chúng ta đang mắc bệnh về ý tưởng tiêu cực phiền não, làm cho chúng ta tạo nên những hành vi lầm lỗi, mang lại quả khổ đau. Điều gì có thể chữa lành căn bệnh này? Điều gì có thể làm dịu khổ đau của chúng ta? Chúng ta cần điều trị gì? Đó là Pháp. Pháp là liều thuốc duy nhất có thể giúp đỡ.  

Bây giờ, vấn đề về liều thuốc đó là phải dùng thuốc. Bệnh nhân có đúng thuốc nhưng không uống thuốc thì không thể chữa khỏi. Tương tự, nếu chúng ta không thực hành giáo Phápchúng ta thọ nhận thì không thể chấm dứt các vấn đề trong đời sống hàng ngày của chúng ta hoặc thoát khỏi khổ đau.  

Trước khi nhiếp thọ các giáo lý về sự chuyển hóa ý tưởng Đại thừa vĩ đại, chúng ta cần phải hoàn thành các thực hành sơ bộ. Đây là nền tảng đúng để thiền định về bồ đề tâm. Những giáo lý khởi đầu này bao gồm những nội dung về tái sinh làm người toàn hảo – đó là gì, nó có ý nghĩa như thế nào và sẽ khó như thế nào để tiếp nhận trở lại; vô thường và cái chết; nương tựa Phật, Pháp và Tăng; nghiệp; và những thiếu sót của vòng sinh tử luân hồi. Bạn nên bắt đầu thực hành của mình bằng cách tu tập và rồi đưa vào thực hành giáo lý về sự tái sinh làm người toàn hảo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 153)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 230)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 258)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 289)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 358)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 564)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 630)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 571)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 634)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 563)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 501)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 563)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 639)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 653)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 745)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 565)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 465)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 548)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 622)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 552)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 560)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 663)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 680)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 658)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 727)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 767)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 737)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 928)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 786)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1318)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 871)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1033)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 798)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1018)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 961)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 931)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1073)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1325)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1680)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 925)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1099)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 921)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 786)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 909)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 947)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1359)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1107)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1141)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 896)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1033)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1470)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1358)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1348)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 969)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1349)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1255)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1176)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1215)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1581)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant