Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Làm Thế Nào Để Bắt Đầu Thực Hành Pháp

15 Tháng Giêng 202220:20(Xem: 3090)
Làm Thế Nào Để Bắt Đầu Thực Hành Pháp
Làm Thế Nào Để Bắt Đầu Thực Hành Pháp

Song Rinpoche
Minh Hằng

buong bo

HH. Song Rinpoche (1905 - 1984) sinh ra tại Kham, Tibet, học tại tu viện Ganden, nổi tiếng là một geshe uyên bác và là tu viện trưởng ở đây trong 9 năm. Sau đó, ngài sang Ấn Độ và là hiệu trưởng Học viện Nghiên cứu Tây Tạng Cao Cấp tại Sarnath. Rinpoche ban hướng dẫn nhập môn này vào ngày đầu tiên của khoá học hai tuần về Đại Thừa Chuyển Tâm tại Camp Kennolyn, Soquel, California, 20/05/1978 trong chuyến hoằng pháp đầu tiên của ngài tới phương Tây. Lama Zopa Rinpoche dịch trực tiếp tại pháp hội. Minh Hằng dịch Việt

---o0o---


THỰC HÀNH PHÁP LÀ SỰ LỰA CHỌN CÁ NHÂN

Nói chung, với tư cách cá nhân, tùy bạn có muốn thực hành Pháp hay không. Đó không phải là điều gì bạn có thể bị buộc phải làm – trừ philuật pháp sở tại, trong trường hợp này mọi người phải thực hành. Mặc dù thế, đó không phải là thực hành Pháp thực sự bởi vì tuân theo luật pháp sở tại nên được thực hiện chỉ cho đời này. 

Nếu bạn chỉ sống cho đời này, bạn không giúp ích cho các đời sau của bạn, trong khi thực hành Pháp, bạn mang lại hạnh phúc không chỉ cho tất cả các đời sau mà còn cho cuộc sống hiện tại của bạn nữa. 

Tuy nhiên, bạn phải tìm thấythực hành chánh Pháp; nếu bạn thực hành tà Pháp, cho dù bạn thực hành nó bao nhiêu, bạn cũng lãng phí cả cuộc đời của mình. 

Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó. Nhiều tôn giáo khác nhau đã xuất hiện trên Địa cầu này nhưng Pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ban hạnh phúclợi ích lúc bắt đầu, ở giữa và cuối cùng. Nhân của Pháp là công đức, Pháp dẫn đến công đức, Pháp tạo công đức mọi lúc và, do đó mang lại lợi ích liên tục

Từ lúc bắt đầu, Phật Pháp lan rộng khắp Ấn Độ và sau đó sang Tây Tạng. Những ngày này, vì tình thế bất lợi, Pháp đang truyền bá lại trong Ấn Độ và thậm chí xa hơn. Tôi sử dụng từ “bất lợi” bởi vì tình thế mà tôi đang nói đến là tình thế đã diệt trừ Phật giáoTây Tạng. Tuy nhiên, vì cùng tình thế này đã giúp Pháp truyền bá đến các nước khác, từ cách nhìn đó có lẽ chúng không quá bất lợi

Bạn nên làm gì khi bạn gặp Pháp? Đầu tiên bạn nên lắng nghe, sau đó hãy cố hiểu ý nghĩa và cuối cùng thiền định. Nếu bạn thực hành theo cách đó, bạn có thể đạt thành giác ngộ

Có hai lý do để lắng nghe [hoặc đọc] những giáo lý; một là đơn giản đạt được hiểu biết trí tuệ, hai là biết cách để thực hành. Nếu bạn thực hành Pháp, sẽ giũ sạch các ý tưởng tiêu cực phiền nãochuyển hóa tâm bạn; thay đổi tâm tốt hơn. Điều này mang lại hạnh phúc cho bạn trong đời này và các đời sau

Nếu bạn lắng nghe [hoặc đọc] Pháp để đạt được hiểu biết trí tuệ nhưng không đưa các giáo lý mà bạn nghe vào thực hành thì bạn không giúp ích cho tâm nhiều đâu. Tuy nhiên, vì những gì bạn đang lắng nghe là Phật Pháp nên có lợi ích nào đó – nghe giáo lý để lại dấu ấn trong thức của bạn; nó gieo mầm trong tâm bạn. Sau đó, trong đời sau, bạn có thể sẽ dễ dàng hiểu và nhận biết Pháp hơn. 

Do đó, nếu bạn đang lắng nghe [hoặc đọc] giáo lý để hiểu và thiền định về chúng, điều đó thật tuyệt hảo, nhưng dù thế nếu bạn chỉ cố đạt hiểu biết trí tuệ, điều đó cũng tạo phước đức rộng lớn và là nhân cho hoan hỷ. Dù bất cứ động cơ thúc đẩy của bạn nghĩ về Pháp là gì thì bạn nên cảm thấy “Tôi thật may mắn làm sao!”. 

chúng ta gặp Pháp trong thời mạt pháp này, điều vô cùng quan trọng là chúng ta đừng để lỡ cơ hội này. Một khi chúng ta bắt đầu thực hành, điều thiết yếu là bạn không chỉ tiếp tục thực hành như vậy mà còn hoàn thành sự thực hành của mình. Đầu tiên hãy thử hiểu các giáo lý, sau đó thử thực hiện những gì bạn hiểu có lợi nhất có thể cho các chúng sanh khác.  

Để Pháp mở rộng trong tâm, bạn phải tìm được một vị đạo sư phẩm hạnh hoàn hảo. Những ngày này, số các tăng sĩ, cao tăng (gesh), và Lama uyên bác bên ngoài Tây Tạng nhiều hơn tại Tây Tạng

Điều mà chúng ta gọi là Pháp là liều thuốc trị tâm, thay đổi từ tâm bất phục, trạng thái trước Pháp sang tâm tốt đẹp hơn. Từ thuở vô thủy, tâm chúng ta đã bị hoen ố, mơ hồ, nhiễm ôphiền não bởi tam độc của vô minh, tham đắm và giận dữ bởi vì chúng ta vừa không hiểu biết vừa không thực hành giáo lý. Pháp là liều thuốc thay đổi phần nào tâm đó cho tốt đẹp hơn.


TÁI SINH

Không chỉ Phật giáotôn giáo giảng về tái sinh. Chẳng hạn ở Ấn Độ cổ, đã có nhiều tín ngưỡng phi Phật giáo tin vào sự tái sinh. Nhưng một trong những tôn giáo này – Triết học duy vật khoái lạc (người theo chủ nghĩa khoái lạc), tri kiến của họ đặc biệt bị hạn chế – phủ nhận sự hiện hữu của tái sinh bởi vì họ tin rằng chỉ tất cả những gì mà họ có thể nhìn thấy bằng mắt mới hiện hữu. Đó là lập luận của họ: nếu bạn có thể thấy nó thì nó có; nếu bạn không thể thấy nó thì không có. Ngay cả người bình thường cũng cho rằng đây là một vô minh kiến, vô cùng hạn chế. Có nhiều thứ mà bạn không thể thấy – như sau lưng bạn, những thứ được chôn dưới lòng đất hoặc những gì người khác nghĩ – nhưng chúng vẫn hiện hữu

Có nhiều lý do chứng minh sự hiện hữu của các đời trước và đời sau, nhưng nếu bạn không nghiên cứu về các quảng kinh đi sâu vào những lý do này thì khó cho tôi giải thích chúng và khó cho bạn để hiểu. 

Tuy nhiên, vì bạn đã quan tâm thực hành Pháp rồi, nên cũng không bắt buộc tôi phải cố giải thích sự hiện hữu của tái sinh cho bạn. Dù sao đi nữa, số lượng các hiện tượng hiện hữuchúng ta không thể thấy thì vô cùng lớn hơn số mà chúng ta có thể thấy; về cơ bản không so sánh được. Những điều mà chúng ta không thấy hoặc nhận biết là không đếm xuể; kiến thức hiện tại của chúng ta gần như bằng không. Chỉ điều đó cho thấy hiểu biết chúng ta nhỏ bé biết mấy.


BẠN CẦN BIẾT ĐIỀU GÌ ĐỂ THỰC HÀNH PHÁP

Có lẽ điều tốt nhất mà bạn có thể làm khi thực hành Pháp là noi theo giáo lý về ba phạm vi của con đường tiệm tiến tới giác ngộ: con đường cho bậc hạ căn, trung căntối thượng căn. Bằng cách thực hành giáo lý, bạn có thể tạo ra ba phương diện chủ yếu của con đường – sự từ bỏ sinh tử luân hồi, bồ đề tâm, và chánh kiến của tánh không – điều này giúp bạn có đủ tư cách đi theo con đường tiệm tiến của mật chú thừa hay Kim Cương thừa

Tuy nhiên, điều chính mà bạn nên làm là rèn luyện tâm trong bồ đề tâm, bởi vì không làm điều này thì không có khả năng nhỏ nhất để đạt thành trạng thái giác ngộ cực lạc; bạn tuyệt đối phải dấn thân vào những thực hành cao cả của sự chuyển hóa ý tưởng Đại thừa. Nếu không rèn luyện bồ đề tâm, bạn thậm chí không được phép lắng nghe  mật điển (tantra), chưa nói đến đưa chúng vào thực hành. Và khi bạn bước vào mật đạo tantra, bạn nên giữ bí mật việc thực hành của mình; đó là lý do tại sao giáo lý mật điển cũng được gọi là mật chú

Không chỉ giáo lý về mật chú không thể được giảng giải đến những ai có tâm còn non nớt, không dễ lĩnh hội mà ngay cả giáo lý chuyển hóa ý tưởng Đại thừa vĩ đại cũng không nên truyền đạt cho những ai có tâm chưa sẵn sàng. Bạn không thể chỉ chạy vào trung tâm thành phố và trao chúng cho bất kỳ người qua đường. Thực tế, chúng chỉ nên được thuyết cho những học trò hỏi thầy của mình một cách thành khẩn về chúng. 

Nếu bạn muốn đạt thành giác ngộ, bạn cần phải thực hành tantra, và để làm điều đó, bạn cần phải rèn luyện tâm trong bồ đề tâm. Để rèn luyện trong bồ đề tâm, bạn cần phải thực hành sự chuyển hóa ý tưởng Đại thừa vĩ đại và để làm điều đó, bạn cần phải  thọ nhận các giáo lý về nó. Do vậy, bạn nên thành khẩn thỉnh thầy của bạn giảng dạy về các giai đoạn của con đường, đặc biệt về sự chuyển hóa ý tưởng. Sau đó, dù cho tâm của bạn chưa trở thành bồ đề tâm, nhưng gần đến bồ đề tâm, bạn có thể tiếp nhận sự khai tâmgiáo lý về mật chú, vô cùng có ích; điều này để lại một ấn tượng quan trọng trong tâm bạn. 

Trước khi bạn nhiếp thọ giáo lý về sự chuyển hóa ý tưởng Đại thừa vĩ đại, bạn cần phải nghiên cứu những giáo lý sơ bộ  về con đường tiệm tiến tới giác ngộ

Mục đích của Pháp là quy thuận tâm bạn, tu sửa những hành vi trong đời sống hàng ngày của bạn để chúng trở nên ích lợi. Cho nên, giáo Pháp là tấm gương phản ánh rõ ràng các hành vi của thân, khẩu và tâm để bạn có thể nhận định chúng là có ích lợi – nhân của hạnh phúc – hay là có hại – nhân của khổ đau.  

Từ vô thủy trong các đời trước, chúng ta đã nằm dưới sự khống chế của những ý tưởng tiêu cực phiền não, chúng thúc đẩy chúng ta luôn tạo ra những hành động tai hại, nghiệp tiêu cực, nhân của khổ đau mà không có chọn lựa. Kết quả, từ thuở vô thủy, chúng ta đã trải qua những khổ đau khác nhau của sinh tử luân hồi và thậm chí trong đời này, chúng ta tiếp tục chịu đựng như vậy. Từ lúc sinh ra, chúng ta không có được một ngày không có vấn đề

Nói cách khác, chúng ta bị bệnh; chúng ta là bệnh nhân. Chúng ta đang mắc bệnh về ý tưởng tiêu cực phiền não, làm cho chúng ta tạo nên những hành vi lầm lỗi, mang lại quả khổ đau. Điều gì có thể chữa lành căn bệnh này? Điều gì có thể làm dịu khổ đau của chúng ta? Chúng ta cần điều trị gì? Đó là Pháp. Pháp là liều thuốc duy nhất có thể giúp đỡ.  

Bây giờ, vấn đề về liều thuốc đó là phải dùng thuốc. Bệnh nhân có đúng thuốc nhưng không uống thuốc thì không thể chữa khỏi. Tương tự, nếu chúng ta không thực hành giáo Phápchúng ta thọ nhận thì không thể chấm dứt các vấn đề trong đời sống hàng ngày của chúng ta hoặc thoát khỏi khổ đau.  

Trước khi nhiếp thọ các giáo lý về sự chuyển hóa ý tưởng Đại thừa vĩ đại, chúng ta cần phải hoàn thành các thực hành sơ bộ. Đây là nền tảng đúng để thiền định về bồ đề tâm. Những giáo lý khởi đầu này bao gồm những nội dung về tái sinh làm người toàn hảo – đó là gì, nó có ý nghĩa như thế nào và sẽ khó như thế nào để tiếp nhận trở lại; vô thường và cái chết; nương tựa Phật, Pháp và Tăng; nghiệp; và những thiếu sót của vòng sinh tử luân hồi. Bạn nên bắt đầu thực hành của mình bằng cách tu tập và rồi đưa vào thực hành giáo lý về sự tái sinh làm người toàn hảo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1392)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1312)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1369)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1600)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1726)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1685)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1085)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1585)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1570)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1749)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 2024)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1629)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1444)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1450)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1637)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1221)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1342)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1350)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1757)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1715)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3182)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1894)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1437)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1270)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1362)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1477)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1368)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1965)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1743)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1947)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1884)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2459)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1835)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2210)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2326)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2384)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1928)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 2041)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2099)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 2027)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2662)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1995)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1953)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 2003)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1966)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2222)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2377)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 2076)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2187)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1953)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1990)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2493)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2393)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4150)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2557)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3293)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2537)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2105)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1843)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant