Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hiểu Thế Nào Về Câu “duy Ngã Độc Tôn”?

15 Tháng Năm 202216:41(Xem: 2364)
Hiểu Thế Nào Về Câu “duy Ngã Độc Tôn”?
Hiểu Thế Nào Về Câu “duy Ngã Độc Tôn”? 

Thích Phước Tiến

Hiểu Thế Nào Về Câu “duy Ngã Độc Tôn

Trong thời buổi hiện tại, những người muốn tìm hiểu các triết lý Phật giáo đã rất thuận tiện và dễ dàng. Mặc dù vậy, các vấn đề triết lý Phật giáo cũng gây không ít khó khăn, bởi những từ Phật học đa nghĩa, và cách lý giải cũng đa dạng, làm cho người học Phật bị hoài nghi bối rối.

Chẳng hạn, cụm từ “Duy ngã độc tôn” đã có không biết bao nhiêu lời giải thích, nhưng dường như vẫn chưa làm thỏa mãn khách bàng quan, kể cả những người thật tâm nghiên cứu Đạo Phật. Trong các bài kệ của nhiều kinh tạng Phật giáo, đã có đề cập đến câu này, chỉ khác về các câu phụ, còn cụm từ “Duy ngã độc tôn” thì đều giống nhau. Như vậy, chắc chắn từ Duy Ngã Độc Tôn không thể phủ nhận ý nghĩa và giá trị triết học của nó, nhưng trong đó có lẻ từ “Duy ngã” đem đến sự ngộ nhận và tranh cãi nhiều nhất.

Dựa vào lịch sử Đức Phậtchúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân, và bước cuối cùng, Ngài đưa một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, dõng dạc tuyên ngôn: “Thiên thượng thiên hạduy ngã độc tôn”- trên trời dưới trời chỉ có ta (Phật) là tối thượng nhất. Nhiều kinh điển có dẫn chứng câu tuyên ngôn cùng với ý nghĩa này nhưng với các nội dung khác nhau.

Theo kinh Trường A Hàm I, “Thiên thượng thiên hạduy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử” (Trên trời dưới trời chỉ có Ta là tôn quý, việc quan trọng nhất ‘của ta’ là độ chúng sanh thoát ly sanh già bệnh chết - Kinh Đại Bổn Duyên).

Kinh Tu Hành Bản Khởi ghi: “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tônTam giới vi khổ, ngô đương an chi” (Trên trời dưới trời chỉ có Ta là tôn quý nhất. Ba cõi đều khổ, Ta sẽ làm cho chúng sanh an lạc – Đại Chính Tân Tu [ĐCTT], T3, tr.463C) (Phật pháp bách vấn (PPBV) - tập II).

Kinh Thái Tử Thụy Ứng Bản Khởi quyển Thượng chép: “Thiên thượng thiên hạ duy ngã vi tôn. Tam giới giai khổ, hà khả lạc giả?” (Trên trời dưới trời chỉ có Ta là tôn quý nhất. Ba cõi đều khổ, ai là người có thể đem lại sự an lạc? – ĐCTT, T3, tr.473C) (PPBV – tập II).

Kinh Dị Xuất Bồ Tát Bản Khởi thuật: “Thiên thượng thiên hạ, tôn vô quá ngã giả” (Trên trời dưới trời, bậc tôn quý nhất không ai bằng Ta – ĐCTT, T3, tr.618A) (PPBV – tập II).

Kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả, “Ngã ư nhất thiết thiên nhân chi trung tối tôn tối thắngVô lượng sanh tử ư kim tận hỷ” (Ta, đối với tất cả hàng trời người là bậc tối tôn tối thắngVô lượng sanh tử từ nay chấm dứt – ĐCTT, T3, tr.625A) (PPBV – tập II).

Kinh Phật Bản Hạnh Tập, “Thế gian chi trung, ngã vi tối thượng. Ngã tùng kim nhật, sanh phần dĩ tận” (Ở trong thế gian, Ta là bậc cao nhất. Từ nay, việc sanh tử của Ta đã đoạn tận – ĐCTT, T3, tr.687B) (PPBV – tập II).

Qua các đoạn kinh trích dẫn, chúng ta được hiểu chữ Ngã trong các ngữ cảnh trên là chỉ Đức Phật (Ngã = Ta = Phật). Có người dựa vào chữ ngã mà cho rằng Đức Phật kiêu ngạo, hay còn có ngã thì làm sao thành Phật? Mặc dù, duy ngã đã được giải thích nhiều nhưng vẫn còn chưa thỏa đáng. Thật ra câu “duy ngã độc tôn” nhằm thần thánh hóa cho một ý nghĩa triết học nào đó hơn là giá trị lịch sửLịch sử đã cho chúng ta biết, khi Thái tử chào đời chưa chắc Ngài sẽ đi tu, vì tiên A Tư Đà (Asita) tiên đoán, có hai con đường để Thái tử lựa chọn: “Ở đời làm chuyển luân thánh vươngxuất gia làm Phật”. Do đó, chúng ta có thể thấy rằng, về mặt hiện thựcThái tử đã sinh ra đời cũng bình thường như bao nhiêu đứa trẻ sơ sinh khác, và như thế sẽ không thể cất được tiếng nói vào lúc mới sinh ra. Vậy, chúng ta có thể đặt vấn đề là, vì sao câu ấy được nêu trong các kinh? Có từ thời nào? Nó mang ý nghĩa gì? Và, đó cũng là điều nghi vấn về sự mâu thuẫn giữa lịch sử và triết lý Phật giáo.

Tác giả cho rằng, câu “Duy ngã độc tôn” có thể được thêm vào trong những trường hợp sau: Một là sau sự kiện thành đạo vĩ đại của Đức Phật, được người đương thời tôn xưng dệt nên sự kiện siêu phàm đó; Hai, sau khi Đức Phật Niết Bàn, hàng đệ tử biên tập kinh điển đã thêm vào, nhằm đề cao nhân cách của một bậc vĩ nhân phải khác với con người trần thế; Ba, tư tưởng Đại thừa đã đạt đến trình độ cao, đưa ra triết lý Phật tính bình đẳng trong tất cả chúng sanh. Và, tác giả thấy ý nghĩa thứ ba là làm nổi bậc nhất trong cụm từ “Duy ngã độc tôn”.

Như chúng ta đã biết, quan điểm đạo Phật là vô ngã, mọi sự vật hiện hữu đều không thật có cái ta. Đây là quan niệm thời kỳ đầu của Phật giáo (Sơ kỳ Phật giáo). Đức Phật đã giác ngộ được cuộc đời vô thường, không có gì tồn tại mãi mãi, kể cả thân năm uẩn này, nên Ngài đã quyết định từ bỏ mọi thứ để tìm ra chân lý. Và mục đích cuối cùng là Niết Bàn với điều kiện giải quyết tận gốc tính chấp ngã đạt đến vô ngã, lập nên quan điểm vô ngã là Niết Bàn.

Nhưng đến giai đoạn Phật giáo Đại thừa phát triển thì các vấn đề được mở rộng thêm là: Vô ngã chưa phải là điểm dừng, chưa phải mục đích tối thượngVì vậyquan niệm của Đại thừa vượt qua định kiến thông thường về học thuyết vô ngã, vì vô ngã chưa phải thật là Niết Bànvô ngã chỉ là tiền đề quan trọng để đạt đến Niết BànKinh Đại Bát Niết Bàn cho rằng, Thường - Lạc – Ngã - Tịnh mới là thật nghĩa của Niết Bàn.

Vì vậy, cái gì được gọi là Ngã thì phải đáp ứng với các yếu tố: Thường nhất bất biến, không do yếu tố khác để tồn tạitự tại tự chủ, vượt ngoài đối đãi. Do đó, sau vô ngã không phải là không có gì, nếu chân không mà không diệu hữu thì không có tác dụng. Vậy, sau vô ngã là chơn ngã, thật ngã, chỉ cho pháp thân thường trú, chơn thật, không biến đổi, nhưng tuyệt nhiên không phải là cái tồn tại như hữu ngã luận, bởi cái hữu ngã đã được phê phán và phá vỡ từ ban đầu bằng thuyết vô ngãĐức Phật phủ nhận học thuyết hữu ngã và linh hồn, bởi chưa vô ngãcon người sẽ bám chấp vào ngã và linh hồn để hy cầu sự tồn tại sau khi chết, đó là học thuyết của Bà La Môn, Upanishad, tức là có một linh hồn bất tử, là một ảo tưởng.

 

Chữ ngã ở đây không mang nghĩa cái tôi cái ta giả huyễn, hư thuyết mà nó là chân ngãthật ngã, vì chỉ có thật ngã mới là cái siêu xuất trong trời người, là cái độc tôn. Kinh Đại Bát Biết Bàn nói rằng: “Vô ngã là sanh tử, ngã là Như Lai”. Vì vô ngã là tiền đề vào Niết Bàn, phải vượt qua các khái niệm về vô ngã, phá vỡ bức màn the “vô ngã” thì chúng ta mới thật đạt được sự giải thoát rốt ráo, tức Niết Bàn. Đây là ý nghĩa quan trọng để làm sáng tỏ được cụm từ “Duy ngã độc tôn”.

Qua đó, chúng ta nhận thấy, từ duy ngã có nhiều ý nghĩa:

1. Duy ngã là chỉ có sự giác ngộ, bởi giác ngộ là thành Phật. Đó là sự tối tôn ở đời.

2. Duy ngã là chỉ có chân ngã, là cái diệu hữu mầu nhiệm, tức là khi đạt được chân không rốt ráo

3. Duy ngã là chỉ có Phật tánh trong mỗi chúng ta ‘là tôn quý nhất’, vì mỗi chúng sanh đều có Phật tánh và sẽ thành Phật.

4. Duy ngã là pháp thân thường trụ, là bản thể của ba đời chư Phật và của tất cả chúng sanh. Với ý nghĩa này nên, kinh Đại Bát Niết Bàn, phẩm Ai thánĐức Phật đã nêu: “Ngã” chính là thật nghĩa của Phật, “Thường” chính là thật nghĩa của Pháp Thân, “Lạc” là thật nghĩa của Niết Bàn, “Tịnh” là thật nghĩa của Pháp.

Qua đó, duy ngã là một triết lý đặc thù, không phải mang nghĩa chỉ có ta (duy ngã) tức là chỉ có Đức Phật là trên hết. Đồng thờiduy ngã nghĩa là phải vượt qua mọi khái niệm định kiến từ thời Nguyên thủy về thuyết vô ngã, mở ra một chân trời mới về thuyết Phật tánh bình đẳng trong mỗi chúng sanh, xác định ý nghĩa pháp thân chân thật như một thực ngã hằng hữu, bất sanh bất diệt. Chính ý nghĩa này mà chữ duy ngã mới trở thành cái tối tôn tối thượng nhất của muôn loài.

Đức Phật đã đạt được chỗ bất sanh bất diệthay nói khác hơn là thành tựu sự bất tử (chân ngã hằng hữu) và chúng sanh ở chư thiên và loài người cũng có khả năng đạt được chỗ tối thượng này. Đó chính là thật nghĩa của của cụm từ “Duy ngã độc tôn”.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7438)
Trời mưa, trời nắng là chuyện bình thường. Thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa, không thể nào bầu trời không mưa hay...
(Xem: 18204)
“Ăn Cơm Hương Tích, uống Trà Tào Khê, ngồi Thuyền Bát Nhã, ngắm Trăng Lăng Già”...
(Xem: 9374)
Tánh Không với hàm ý bản thể của thế giới, vạn vật đều là không, nghĩa là không có thật, không có thực thể, không có...
(Xem: 8000)
Có một thực tế hiển nhiên cần được ghi nhận rằng, không phải ai cũng hiểu đúng về lời dạy của Đức Phật, ngay cả khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 8996)
Vị thế tối thượng ở đời được Thế Tôn xác lập dựa vào sự kết tinh của tu tập giới định tuệ và thành tựu giải thoát.
(Xem: 7589)
Một thời Thế Tôn du hành giữa dân chúng Kosala, tại thị trấn của người Kàlàmà, ở Kesaputta. Rồi các người Kàlàmà đi đến đảnh lễ...
(Xem: 8245)
Cuộc sống ngày nay, khó mà thoát ly hoàn toàn, vì cơ chế và nhịp sống của nhân loại theo đà tiến hóa khoa học và...
(Xem: 9271)
Hãy trân quý những gì đang có, giải thoáthạnh phúc ở trong lòng bàn tay của bạn! Xin hãy mỉm cười...
(Xem: 9358)
Trong Phật giáo các từ ngữ như “chánh ngữ” và “ái ngữ” luôn luôn được đề cập tới để khuyên dạy các Phật tử khi sử dụng tự do ngôn luận.
(Xem: 9030)
Theo Phật giáo Nam truyền, ngày Đản sanh, Thành đạo và nhập Niết-bàn của Đức Phật đều diễn ra vào ngày trăng tròn tháng Vesākha
(Xem: 7787)
Trong cái thấy của kinh Pháp Hoa thì tất cả vũ trụ là một. “Tất cả các cõi nước thông làm một cõi nước Phật”
(Xem: 11359)
Trong những bộ Kinh chúng ta học thường thấy hai từ Giác NgộGiải Thoát. Tất cả người tu học đều lấy hai từ đó làm cứu cánh để đi tới.
(Xem: 8841)
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh đại thừa Phật giáo.
(Xem: 8273)
Thập hiệu Như Lai, là những danh hiệu cao quý để tôn xưng những bậc đã thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
(Xem: 8180)
Cầu nguyện là một phương pháp tâm linh giúp cho con người chúng ta có thể tháo gỡ một phần nào những nỗi khổ niềm đau,
(Xem: 8171)
Tam Bảo như lãnh vực hoạt động của mặt trời. Lòng bi mẫn của các ngài thì vô tư và không bao giờ cạn kiệt.
(Xem: 6388)
Bốn Đại nguyện của giáo lý đại thừa được triển khai trên sự thực hành giáo lý Tứ Diệu Đế...
(Xem: 7773)
Một thời Đức Phật cư trú gần Bārānasī(Ba La Nại), ngài đã nói bài kệ nầy, về Vua Rồng Erakapatta.
(Xem: 7609)
Tất cả các tính đức là kết quả đến từ tinh tấn, nguyên nhân của hai tích tập phúc đứctrí tuệ. Trí địa thứ tư ngọn lửa trí huệ của...
(Xem: 7589)
Ngọn lửa trí tuệ phát ra ánh sáng khi đốt cháy các hiện tướng nhị nguyên đối đãi của các hiện tượng, do thế trí địa thứ ba được gọi là Phát quang địa.
(Xem: 8578)
Ngũ uẩn giai không 五蘊皆空 nghĩa là năm uẩn đều không có thật. Chữ uẩn 蘊 (skandha) còn gọi là ấm 陰 Uẩn là nhóm hay tập hợp hoặc tích hợp.
(Xem: 8085)
Như Lai thọ lượng là phẩm thứ 16 của kinh Pháp Hoa.
(Xem: 8467)
Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về chư tăng.
(Xem: 11325)
Đối với nhiều người, Phật Giáo vượt ra ngoài tôn giáo và là một triết lý hay "lối sống" hơn. Đó là một triết lý, vì triết lý “có nghĩa là tình yêu của trí tuệ”
(Xem: 8454)
Khi người ác xúc-phạm người hiền lành và vô tội, thì hậu-quả của hành-động ác nầy, đánh ngược lại người làm-ác, cũng giống như khi ném bụi bẩn ngược chiều gió, bụi bẩn bay ngược lại người ném.
(Xem: 7587)
Trong khi cư trú tại Tu Viện Trúc Lâm (Veluvana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về một nữ cư sĩ, tên là Uttarā.
(Xem: 7183)
Món quà tặng về Phật Pháp, cao quý hơn tất cả những món quà tặng khác, Hương vị Phật Pháp, thơm ngọt hơn tất cả những hương vị khác
(Xem: 8468)
Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về Tôn Giả A-Nan.
(Xem: 6341)
Trích dịch Chương Thứ Nhất của Tác Phẩm “Buddhism - One Teacher, Many Traditions [Phật Giáo - Một Vị Thầy, Nhiều Truyền Thống]
(Xem: 8426)
Hồi đầu là quay đầu trở lại hay xoay đầu trở lại. Thị ngạn: chính ngay đó là bờ mé. Đây là một câu người học Phật thường nghe nói.
(Xem: 9460)
Đức Phật dạy giáo lý Nghiệp với mục đích khuyến khích con người thực hành các Nghiệp lành để trang nghiêm cho kiếp sống hiện tại và...
(Xem: 8405)
Bước ngoặt quan trọng nhất trong tiến trình nhận thức của con người có lẽ là khi chúng ta bắt đầu nhận thức về chính bản thân mình.
(Xem: 9376)
Cái Thấy là một biểu hiện của sức sống bản nhiên, là sinh lực thường hằng vượt lên trên mọi giới hạn về thời gian (lúc thức, lúc ngủ, khi sống và cả khi chết…)
(Xem: 8014)
Giáo pháp của Vimalakirti trình bày các giáo pháp tinh yếu của Phật giáo Đại thừa trong 14 chương tương đối ngắn.
(Xem: 7196)
Trung luận, do Bồ-tát Long Thọ làm ra. Được viết dưới dạng kệ tụng. Có khoảng 500 bài kệ. Mỗi bài kệ có 4 câu
(Xem: 9945)
Nói chung, không dễ gì lưu lại ngọc xá lợi, không dễ gì thành tựu đạo quả qua quá trình tu chứng với những kiếp tái sinh nối tiếp trong thiện đạo.
(Xem: 15063)
Này các Tỷ kheo, trong toàn thế giới, Thiên giới, Ma giới, cùng với quần chúng Sa môn, Bà la môn, chư Thiênloài người, Như Lai là bậc chiến thắng, không bị ai chiến bại, toàn trí, toàn kiến, đại tự tại.
(Xem: 9453)
Khi thảo-luận về một ngón-tay, thì ngón-tay có phải là sự-thật không? Có phải chỉ có một ngón-tay duy-nhất, là có thể chỉ đúng vị-trí mặt trăng không?
(Xem: 7963)
Kim Cang dạy rất kỹ. Thấy “thường” đã sai mà thấy “đoạn” càng sai. Thấy có đã sai mà thấy không càng sai. Bồ tát thì “bất tận hữu vi bất trụ vô vi”.
(Xem: 7956)
Phu nhân Thắng Man sau khi phát mười hoằng thệ xong, trên hư không hoa trời liền rơi, nhạc trời liền trổi, chúng thấy điềm lành đó cũng đồng phát nguyện:
(Xem: 8013)
Ở trí địa Li cấu, bởi vì các bồ tátgiới hạnh toàn hảo, nên tự nhiên buông bỏ các hành vi sai lạc dù trong chiêm bao.
(Xem: 7963)
Thanh VănĐộc giác sinh từ chư Tối Thắng (chư Phật); chư Phật sinh từ chư Bồ tát. Đại bi, tính bất nhị, và tâm Bồ đề là những nguyên nhân của chư Tối Thắng Tử
(Xem: 8020)
Ngoại trừ các bậc tự chủ lẽ sống chết thì hầu hết chúng sanh đều không biết được thời điểm lâm chung của mình, nên khó có thể tự chủ tâm tư khi hấp hối.
(Xem: 7719)
Hakuin Ekaku (Bạch Ẩn Huệ Hạc, 白隠 慧鶴?, January 19, 1686 - January 18, 1768) là một thiền sư Nhật nổi tiếng đã có công gây dựng lại dòng thiền Lâm Tế ở Nhật Bản
(Xem: 8732)
Vua A Xà Thế vốn là vị vua có tài, nhờ Phật chuyển hóanhận ra sai lầm, biết sám hối, ăn năn, làm mới lại chính mình, làm lại cuộc đời.
(Xem: 7956)
Muốn thấy được Phật tánh thì phải dừng nghiệp thức. Nghiệp thức không dừng không bao giờ chúng ta thấy được tánh Phật.
(Xem: 8488)
Vượt thoát bể khổ, hẳn không ra ngoài chữ buông. Từ buông vật tài, đến buông thân, rồi buông vọng tưởng, âu là lộ trình vật vã.
(Xem: 10471)
Trong nền văn hóa 5000 năm của con người, mỗi con số không đơn thuần chỉ là con số khô khan mà tất cả con số đều có một ý nghĩa đặc biệt của vũ trụ huyền bí.
(Xem: 8022)
Đây là bốn Chân lý cao quý. Này chư tăng! Những gì là bốn? Các Chân lý cao quý về khổ, về nguồn gốc của khổ, về sự chấm dứt của khổ, và Chân lý cao quý về phương pháp dẫn đến sự chấm dứt của khổ.
(Xem: 11007)
Trong kinh có ghi lý do Đức Phật xuất hiện nơi đời chỉ vì một đại sự nhân duyên lớn đó là Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến...
(Xem: 8736)
Cùng một việc dứt thở, bỏ xác, tại sao ở người thế-gian, gọi là chết, còn ở Phật lại gọi là “nhập Niết-bàn”?
(Xem: 7871)
Sống, theo tính chất duyên sinh, là sống với, liên hệ với; không ai sống mà không có mối tương quan với người khác.
(Xem: 7543)
Vào đầu thế kỷ 12, quân Hồi giáo đã xâm chiếm Ấn-độ, với bản chất tàn bạo họ đã tàn sát các Tăng Ni, Phật tử, đốt sạch các Kinh điển Phật giáo...
(Xem: 8457)
Như Lai là một trong mười danh hiệu của Thế Tôn. Vậy thế nào là “Pháp” và tu học như thế nào để “thấy Pháp”.
(Xem: 8011)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo của vũ trụ. Nó cao cả hơn một thượng đế nhân tạoloại bỏ những giáo điềuthần học.
(Xem: 8538)
Nhập Trung đạoCon đường Bồ tát tích hợp đại bitrí tuệ, khởi hành từ đại bi và tích hợp với tính bất nhị và tâm bồ đề.
(Xem: 7985)
Thanh VănĐộc giác sinh từ chư Tối Thắng (Chư Phật) Chư Phật sinh từ chư Bồ tát. Đại bi, tính bất nhị, và tâm Bồ đề là những nguyên nhân của chư Tối Thắng Tử (Chư Bồ tát)
(Xem: 7991)
Bộ luận này, giải thích một cách không sai lạc tri kiến của ngài Long Thọ, được tích hợp từ Trung Lu
(Xem: 7173)
Theo kinh điển Nguyên thủy của Phật giáo Nam tông, Bồ tát Đản sanh, Bồ tát thành Đạo và Phật nhập Niết-bàn đều diễn ra vào ngày trăng tròn tháng tư âm lịch.
(Xem: 8374)
Tập tục dâng hương là một đạo lý truyền thống của dân tộc có từ ngàn xưa, đây là những gia bảo tinh thần đáng quý của tổ tiên để lại cho con cháu kế thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant