Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phước Lạc Thay Sự Xuất Hiện Của Chư Phật

25 Tháng Năm 202205:41(Xem: 2268)
Phước Lạc Thay Sự Xuất Hiện Của Chư Phật
Phước Lạc Thay Sự Xuất Hiện Của Chư Phật

Thích Nhuận Châu

sen

Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Namchúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì lúc ấy, đất nước được an bình và tinh thần người Việt Nam chúng ta được thăng hoa. Sử liệu cụ thể đã chứng minh rõ vào thời đại nhà Lý, nhà Trần, các vị vua sáng suốt, các vị bề tôi tài trí đã biết đưa dân tộc mình nương vào dòng chảy thênh thang của đạo Phật – lúc ấy, dòng Thiền Pháp Vân (đời Lý), dòng Thiền Trúc Lâm (đời Trần) đang tìm được mảnh đất tươi tốt ươm mầm – để từng bước đem sức sống bao dunghiểu biết hòa quyện cùng mạch nguồn dân tộc, khiến cho đất nước trở mình, khẳng định sự tồn tại đầy tính nhân văn và khai phóng. Những cống hiến về mặt văn học, nghệ thuật, kiến trúc, điêu khắc… trong thời kỳ này đã chứng tỏ một điều, là khi nào đạo Phật thổi vào nguồn mạch tâm linh của dân tộc Việt Nam thì liền làm cho dân tộc thăng hoa từ nhiều phương diện.

Nên dân tộc cần phải đồng hành cùng với đạo Phật. Dân tộc có chịu đi trong mạch nguồn vi diệu của đạo Phật thì mới mong làm cho sức sống của đất nước ngày càng vươn cao.

Sở dĩ đạo Phật có được lực tác động vi diệu đó là do một trong những yếu tính trong giáo lý đức Phật đã để lại cho chúng sinh là mở rộng lòng thương tôn trọng sự sống. Vì thế, chúng ta hãy chiêm nghiệm thật kỹ điều này.

Mở rộng lòng thương tôn trọng sự sống có đủ cả hai yếu tố bi và tríMở rộng lòng thương là bitôn trọng sự sống  tríThực hiện trọn vẹn hai yếu tố này là đạt được sự lý viên dungbi trí song vậnChúng ta hãy nhớ, một đời đức Phật hành đạo cũng chỉ để thực hiện tính viên dung này. Khi nhìn đức Phật trên phương diện con người lịch sửchúng ta thấy con người ấy là một nhà giáo dục siêu tuyệt. Những gì Ngài để lại cho hậu thế, về mặt tư tưởng, mãi cho đến nay, vẫn chưa có một đánh giánhận định nào tiếp cận thật chính xác được những điều tinh tuý nhất. Về mặt văn họcTam tạng kinh điển gần như là một kho tàng đồ sộ mà các nhà nghiên cứu từng tuyên bố, dù có trải qua nhiều kiếp sống cũng khó thâm nhập hết được. Giáo pháp chúng ta được thừa hưởng ngày nay mang trọn vẹn sắc thái giáo dục từ bản nguyện của Ngài. Cho nên thế gian mãi mãi cần đến đạo Phật. Hễ con người còn khổ đau là còn cần đến đạo Phật. Như lời tán thán:

Phước lạc thay là sự xuất hiện của chư Phật.
Phước lạc thay là sự diễn thuyết của chánh pháp.
Phước lạc thay là sự hòa hiệp của Tăng-già.
Phước lạc thay là sự cần tu của đại chúng.[1]

Nhân loại chúng ta may mắn thay, ngay từ thuở bình minh, đã có sẵn yếu tính giáo dục này trong huyết quản của mình. Ngày nay, khi nền văn minh công nghệ tiến bộ, những giá trị đạo đức tâm linh càng bị thử thách và xói mòn, thì yếu tính giáo dục trong Phật giáo chúng ta càng được đặt ra một cách bức thiết hơn. Trách nhiệm đặt trên vai hàng cư sĩ chúng ta càng nặng nề hơn, tư duy phải càng sâu thẳm, sắc bén hơn. Chúng ta cũng là một thành viên trong bốn chúng của Tăng-già. Phước lạc đem lại cho nhân gian đang chờ trông vào sự hy sinh, siêng năng hành trì tu tập của chúng ta.

Sự hành đạo và sống đạo của người Phật tử chúng ta đang đối diện ngày hôm nay là lúc đang ‘bị nhiễu sóng’ bởi thời đại ‘lắm chuyện’. Điều này đức Phật đã dự báo trước cho chúng ta qua Kinh A-di-đà bằng ý niệm Ngũ trược.[2] Tiến trình toàn cầu hóa của nhân loại ngày nay cho chúng ta thấy ý niệm tương tức mà đức Phật đã thể nhập và chỉ dạy cho chúng ta là một trong những giáo lý chủ đạo, đề cập giữa vật thể–sự kiện mà chúng ta quán sát được trong hiện tượng tự nhiên ngày nay, như là một minh họa cho chân lý mà ngài đã chứng ngộ. Sự ô nhiễm của khói bụi công nghiệp, quan hệ phát triển kinh tế giữa các quốc gia, chưa kể đến những mối quan hệ phức tạp giữa cá nhân.

Ngày nay, chúng ta còn đối diện với vấn đề chưa được báo trước như dịch bệnh và thiên taiChúng ta có tâm nguyện dựa vào giáo lý đức Phật đã chỉ dạy để nhờ đó nhận ra nhị nguyên tính, nhận chân cho rõ duy ngã luận để hóa giải hết những vấn nạn này trong thế song hành với chiều hướng phát triển khoa học công nghệ càng lúc càng vươn đến đỉnh cao.

Và chúng ta cũng được nghe lời phát nguyện của A-nan qua Kinh Thủ-lăng-nghiêm:

Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập…

Ngài A-nan đã phát nguyện, đã thực hành, và nhờ đó, chính ngài đã vượt qua thời đại Ngũ trược đầy nhiễu sóng này. Ngài đã vượt qua bằng chất liệu của tinh thần mở rộng lòng thương tôn trọng sự sống.


THÍCH NHUẬN CHÂU


[1] Skt.: buddhānāṃ sukkha utpādaḥ sukhā dharmasya deśanā/ sukhā saṅghasya sāmagrī samagrāṇāṃ tapaḥ sukham//
(Pāli): sukho buddhānam uppādo, sukhā saddhammadesanā, sukhā saṅghassa sāmaggī, samaggānaṃ tapo sukho. Pháp cú, 194

[2] S: pañca kaṣāyāḥ; e: five defilements. Năm biểu hiện suy thoái:
1. Kiếp trược: kỷ nguyên suy thoái tức kiếp giảmThiên tai, dịch bệnh, chiến tranh, khủng bố, v.v… đang đe doạ, rút ngắn đời sống con người.
2. Kiến trược: Cái thấy ngắn hạn. Đảo lộn mọi giá trị tâm linh, dẫn đến tà kiến. Các giáo phái hoành hành.
3. Phiền não trượcĐạo đức suy giảm, không còn được tôn trọngCon người ngày càng bất an, mất niềm tin và phương hướng sống.
4.Chúng sinh trược: Quan hệ cộng đồng nhân sinh ngày càng xem nhẹ. Nhân phẩm bị xói mòn và bị xem thường.
5. Mạng trược: Mạng sống con người giảm dần. Những căn bệnh hiểm nghèo chưa tìm ra thuốc chữa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 153)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 230)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 256)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 289)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 358)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 564)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 630)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 571)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 634)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 563)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 500)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 563)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 638)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 653)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 745)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 565)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 465)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 548)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 622)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 552)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 560)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 663)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 679)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 658)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 726)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 766)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 737)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 928)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 786)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1318)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 871)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1032)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 798)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1018)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 961)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 930)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1073)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1325)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1680)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 925)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1099)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 920)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 786)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 908)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 947)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1359)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1106)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1141)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 896)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1033)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1469)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1358)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1348)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 969)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1349)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1255)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1175)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1215)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1580)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant