Góp Thêm Vài Nguồn Gốc Tư Liệu Về Bản Diễn Kệ Kinh Vô Ngã Tướng Của Ni Trưởng Huỳnh Liên Chúc Phú
Căn cứ thông tin từ tác phẩmNi trưởng Huỳnh Liên - cuộc đời và đạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáoKhất sĩấn hành vào năm 2016 thì trong số những tác phẩm, dịch phẩm của Ni trưởng có bản diễn kệ của bài Kinh Vô ngã tướng.[1] Đặc biệt, bản diễn kệ này hiện đã được đưa vào Nghi thứctụng niệmchính thức của hệ phái Phật giáoKhất sĩViệt Nam.[2]
Trong khuôn khổ Hội thảo về Ni trưởng Huỳnh Liên - những đóng góp cho Đạo pháp - Dân tộc và các giá trịkế thừa, chúng tôi xin góp thêm vài cơ sở tư liệu cũng như ghi nhận một vài điểm đặc thù xoay quanh bản diễn kệ nêu trên của Ni trưởng Huỳnh Liên.
1. Về nội dung, cơ sở tư liệu và thực tiễn vận dụng
1.1. Về nội dung và cơ sở tư liệu
Sau bài KinhChuyển pháp luân (Dhammacakkappavattana Sutta), Kinh Vô ngã tướng (Anattalakkhaṇa Sutta) là bài kinh quan trọng thứ hai được Đức Phật thuyết cho năm anh em A-nhã Kiều-trần-như (Añña Koṇḍañña) nên cũng còn gọi là Nhóm năm vị (Pañcavaggiya). Bài kinh này xuất hiện trong Kinh Tương ưng bộ (S.22.59-III.66) và nhiều nơi khác. Để tiện theo dõi, chúng tôi xin dẫn lại bản dịch tiếng Việt của Hòa thượng Thích Minh Châu:
Kinh Vô ngã tướng[3]
Một thời Thế Tôn ở Bārānasī (Ba-la-nại), tại Isīpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển.
Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo”. “Thưa vâng bạch Thế Tôn”. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: “Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!”
Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: “Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!”
Thọ, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu thọ là ngã, thời thọ không thể đi đến bệnh hoạn, và có thể được các thọ như sau: “Mong rằng thọ của tôi như thế này! Mong rằng thọ của tôi chẳng phải như thế này!”
Và này các Tỷ-kheo, vì thọ là vô ngã. Do vậy, thọ đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các thọ: “Mong rằng thọ của tôi như thế này! Mong rằng thọ của tôi chẳng phải như thế này!”
Tưởng là vô ngã…
Các hành là vô ngã, này các Tỷ-kheo, nếu các hành là ngã, thời các hành không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các hành như sau: “Mong rằng các hành của tôi như thế này! Mong rằng các hành của tôi chẳng phải như thế này!”
Và này các Tỷ-kheo, vì các hành là vô ngã. Do vậy, các hành đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các hành: “Mong rằng các hành của tôi như thế này! Mong rằng các hành của tôi không phải như thế này!”
Thức là vô ngã, này các Tỷ-kheo, nếu thức là ngã, thời thức không thể đi đến bệnh hoạn, và có thể có được các thức như sau: “Mong rằng thức của tôi như thế này! Mong rằng thức của tôi chẳng phải như thế này!”
Và này các Tỷ-kheo, vì thức là vô ngã. Do vậy, thức đi đến bệnh hoạn, và không có thể có được thức: “Mong rằng thức của tôi như thế này! Mong rằng thức của tôi chẳng phải như thế này!”
Này các Tỷ-kheo, các ông nghĩ thế nào? Sắc là thường hay vô thường?
- Là vô thường, bạch Thế Tôn!
- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
- Là khổ, bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Thọ… Tưởng… Các hành…
Thức là thường hay vô thường?
- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
- Là khổ, bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Do vậy, này các Tỷ-kheo, phàm sắc gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc cần phảinhư thật quán với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”.
Phàm thọ gì…
Phàm tưởng gì…
Phàm các hành gì…
Phàm thức gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả thức cần phảinhư thật quán với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”.
Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, bậc Đa văn Thánh đệ tử yểm ly đối với sắc, yểm ly đối với thọ, yểm ly đối với tưởng, yểm ly đối với các hành, yểm ly đối với thức. Do yểm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên: “Ta đã được giải thoát”. Vị ấy biết rõ: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.
Thế Tôn thuyết như vậy. Nhóm năm vị Tỷ-kheo hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy. Trong khi lời dạy này được nói lên, tâm của nhóm năm vị Tỷ-kheo được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.
KinhVô ngã tướng (Anattalakkhaṇa Sutta) là một bài kinh có những cơ sở nguồn cội vững chắc, được nhiều tông pháiPhật giáoviện dẫn và đề cập. Cụ thể, bài kinh này xuất hiện trong một số tác phẩm kinh, luật sau:
Phật thuyếtNgũ uẩngiai không kinh 佛說五蘊皆空經 (T.02. 102. 0499c08).
Trong Luật tạng của Hóa Địa bộ (化地部), ở phần “Thọ giới pháp” (受戒法) thuộc tác phẩmDi-sa-tắc-hòa-ê Ngũ phần luật 彌沙塞部和醯五分律 (T.22. 1421.15. 0104b08-0105a24) .
Trong Luật tạng của Pháp Tạng bộ (法藏部), ở phần “Thọ giới kiền-độ” (受戒揵度), thuộc tác phẩmTứ phần luật 四分律 (T.22. 1428.32. 0787c13-0789b04).
Trong Luật tạng của Thượng Tọa bộ (Theravāda), ở chương “Trọng yếu” (Mahākhandhaka) thuộc Đại phẩm (Mahāvagga).
Trong tác phẩmTiểu diễn giải (Cūḷaniddesa), ở mục “Giải thích câu hỏi của thanh niên Mogharāja” (Mogharājamāṇavapucchāniddesa).
Trong tác phẩmĐại sự (Mahāvastu) của Thuyết Xuất Thế bộ (說出世部,Lokottaravāda).
Ngoài ra, trong những năm gần đây, giới khảo cổ đã tiếp cận một tư liệu lịch sử quan trọng liên quan đếnKinh Vô ngã tướng, đó là một phiến đoạn của bản kinh này được ghi chép bằng mẫu tự Kharosṭṭhi, thuộc ngôn ngữ Gāndhārī có niên đại khoảng thế kỷ thứ hai.[4]
Như vậy, Kinh Vô ngã tướng là một bài kinh quan trọng, được các bộ phái Phật giáogìn giữ, truyền thừa và ghi xuống bằng văn bản rất sớm trong lịch sửbiên tậpkinh điển. Đặc biệt, nội dung bài kinh đã khái quát cô đọng ba đặc tướng giáo pháp của Đức Phật, đó là Vô ngã (anattā), Vô thường (anicca) và Khổ đau (dukkha). Ba đặc tướng này cũng tương đồng như những vần kệ được ghi lại trong Kinh Pháp cú (Dhammapada, 277-279):
(277. "Tất cả hành vô thường. Với Tuệ quán thấy vậy. Đau khổ được nhàm chán. Chính con đườngthanh tịnh.”
278. "Tất cả hành khổ đau. Với Tuệ quán thấy vậy. Đau khổ được nhàm chán. Chính con đườngthanh tịnh.”
279. "Tất cả pháp vô ngã. Với Tuệ quán thấy vậy. Đau khổ được nhàm chán. Chính con đườngthanh tịnh.” (HT.Thích Minh Châu dịch).
Với tính chất khái quát, cô đọng, thế nên ba đặc tướng, ba tính chất quan trọng này đã được Đức Phật khéo léo vận dụng trong nhiều hoàn cảnhthực tiễn khác nhau. Đặc biệt, trong một số trường hợp đã được dùng để khai thị cho các vị Tỷ-kheo hoặc cho các vị cư sĩ đang lâm trọng bệnh, được ghi lại trong nhiều bài kinh thuộc Tương ưng bộ (Saṁyutta Nikāya).
1.2. Về thực tiễn vận dụng
Có nhiều bài kinh trong Tương ưng bộghi nhận về ba đặc tướng của giáo pháp được Đức Phật dùng để khai thị cho các Tỷ-kheo hoặc các vị cư sĩ khi các vị này bị bệnh, bị đau đớn, bị trọng bệnh (ābādhiko dukkhito bāḷhagilāno). Bước đầu khảo sátTương ưng bộ, có thể kể đến những kinh như: Kinh Vakkali (S.22.87-III.124); Kinh Assaji (S.22.88-III.126); Kinh Khemaka (S.22.89-III.127-132); Kinh Dīghāvu (S.55.3-V.345-34); KinhAnāthapiṇḍika thứ nhất (S.55.26-V.380). Nhân đây, chúng tôi xin lược trích Kinh Vakkali (S.22.87-III.124) qua bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu như là một minh chứng về sự vận dụng linh hoạt này:
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Rājagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
Lúc bấy giờ, Tôn giả Vakkali trú tại nhà một thợ gốm, đang bị bệnh, đau đớn, trầm trọng.
Rồi Tôn giả Vakkali gọi những người thị giả:
- Đến đây, các Hiền giả! Hãy đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nhân danh ta cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và thưa: “Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Vakkali bị bệnh, đau đớn, trầm trọng; (Vakkali) cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và thưa: ‘Lành thay, bạch Thế Tôn, Thế Tôn vì lòng từ mẫn hãy đi đến Tỷ-kheo Vakkali.’”
…
[Phật dạy]:
- Này Vakkali, ông nghĩ thế nào, sắc là thường hay vô thường?
- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường, là khổ hay là lạc?
- Là khổ, bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi"?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Thọ... Tưởng... Các hành... Thức là thường hay vô thường?
- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
- Là khổ, bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi"?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
15-16) - Do vậy, ở đây... thấy vậy... "... không còn trở lui trạng thái này nữa". Vị ấy biết rõ như vậy.
Bên cạnh những tư liệu thuộc văn hệ Pāli vừa nêu, trong tư liệu Hán tạng, cụ thể là bộ Thanh quy của ngài Bách Trượng (百丈, 720-814), cũng ghi nhận rằng, khi một vị trụ trìviên tịch, ngoài những nghi lễcần thiết thì cần phải tụng kệ Vô thường. Theo Thanh quy hướng dẫn, “Tất cả những Phật sự [trong tang lễ] đều nên miễn giảm, chỉ nên tụng bài kệVô thường, giống như lễ tang của một vị Tăng thông thường, không nên phung phí tài vật của thường trụ và cũng không nên làm phiền nhọc đại chúng.”[5]
Đối với thể thức tang nghi Tăng sĩ ở một số nước Nam Á, theo ghi chép của ngài Nghĩa Tịnh (義淨, 635-713) trong Nam Hải ký quy nội pháp truyện thì trong pháp thức lễ tang của hàng Tỷ-kheo có tụng bài kinhVô thường:
Như vậy, theo lời Phật dạy, Tỷ-kheo viên tịch, quán sát và biết rõ [vị ấy] đã chết hoàn toàn thì trong ngày đó khiêng [di thể] đến nơi hỏa táng rồi nhanh chóng dùng lửa hỏa thiêu. Trong lúc hỏa táng, bạn bè thân hữu đều vì người mất mà ngồi một bên, hoặc kết cỏ để làm tòa, hoặc dùng đất làm đàn tế, hoặc bày biện gạch đá để có chỗ tôn trí di vật. Thỉnh một vị có năng lực tụng một đoạn hoặc một trang kinh Vô thường, chớ [tụng] quá lâu khiến chúng mỏi mệt, (kinh này có ghi kèm trên phần Biệt lục), sau đó mỗi người đều niệm vô thường rồi trở về trụ xứ.[6]
Ở đây, việc tụng “Kệ vô thường” hoặc “Kinh vô thường” trong tang lễ được ghi nhận trong nhiều tác phẩm kinh, luật. Đặc biệt, trong những dịch phẩm của ngài Nghĩa Tịnh có bản kinh “Vô thường”, gọi đủ là “Phật thuyếtvô thường kinh”[7], bản kinh này trong nội dung có liên hệ một phần với Kinh Vô ngã tướng. Vấn đề này, chúng tôi sẽ đề cập trong một chuyên khảo khác.
Có thể nói, những liên hệmở rộng ở trên đã góp phần lý giải vì sao Kinh vô ngã tướng được uyển chuyển vận dụng trong pháp sự tang nghi của nhiều truyền thốngPhật giáo mà ở đây là trong Nghi thứctụng niệm của Phật giáoKhất sĩViệt Nam.
2. Tính chất quan trọng, đặc thù trong việc chuyển thể kinh điển sang thi kệ và thực tế việc chuyển thể này trong quá khứ cũng như hiện tại
Trước hết, nếu căn cứ vào chín thể tàikinh điển theo quan điểm của Phật giáo Nguyên thủy hay mười hai thể tài theo Phật giáoĐại thừa thì bài Kinhvô ngã tướng thuộc thể loại Khế kinh (契經), cũng gọi là Trường hàng (長行), nói theo ngôn ngữhiện đại thì thuộc về thể loại văn xuôi. Trong văn học nói chung và đặc thù kinh điển nói riêng, từ thể tàivăn chương này khi được chuyển sang một dạng thể tàivăn chương khác, mà ở đây là từ thể Trường hàng được chuyển sang dạng Kệ tụng đòi hỏi phải có sự cẩn trọng và nghiêm túc, vì có những liên hệ đến giới luật và cả trong thực tiễntruyền thừakinh điển nói chung.
2.1. Việc chuyển thể tàikinh điển sang dạng có niêm luật theo quy địnhgiới luật
Theo Cullavagga, có hai vị Tỷ-kheo tên là Yameḷu và Tekula vốn xuất thân từ dòng dõi Bà-la-môn giỏi về văn chương, đã đến cầu thỉnhĐức Phật rằng:
- Bạch Ngài, hiện nay các Tỷ-kheo có tên gọi khác nhau, có dòng dõi khác nhau, có giai cấp khác nhau, có gia tộc khác nhau đã xuất gia. Các vị ấy đang làm hỏng lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính họ. Bạch Ngài, hãy để chúng con hoán chuyển lời dạy của Đức Phật sang dạng có niêm luật (chandaso).
Đức PhậtThế Tôn đã khiển trách rằng: …(như trên)…
- Này những kẻ rồ dại kia, vì sao các ngươi lại nói như vầy: “Bạch Ngài, hãy để chúng con hoán chuyển lời dạy của Đức Phật sang dạng có niêm luật”? Này những kẻ rồ dại kia, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin,… (như trên)…
Sau khi khiển trách, Ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các Tỷ-kheo rằng:
- Này các Tỷ-kheo, không nên hoán chuyển lời dạy của chư Phật sang dạng có niêm luật; vị nào hoán chuyển thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các Tỷ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)[8].
Theo nghiên cứu của Étienne Lamotte,[9] có sáu bản Luật tạng cùng đề cập đến câu chuyện này, tức là quy định không cho phép chuyển lời Phật dạy sang dạng có niêm luật.
Về quan điểm này, theo chúng tôi, có lẽ Đức Phật đã đặc biệtnhấn mạnh rằng, nếu chuyển lời Phật từ thể văn xuôi sang dạng kệ tụng có niêm luật thì dễ xảy ra tình trạng gò câu, bớt chữ, thế nên nghĩa lý dễ bị hiểu nhầm.
Một trong những trường hợp bất cập từng xảy ra theo quan điểm vừa nêu, đó là cách hiểu về cụm từ “Chiên đàn hải ngạn” (栴檀海岸) như là một loại chiên-đàn mọc bên bờ biển trong bài kệTán hương (香讚).[10] Thực ra, theo Diệu pháp liên hoa kinh 妙法蓮華經 (T.09. 0262.6. 0053b02), gọi cho đầy đủ là Hải thử ngạn chiên đàn (海此岸栴檀). Khảo về nguyên tác Sanskrit của bản kinh này thì cụm từ vừa nêu nằm trong Dược Vương Bồ-tát bổn sựphẩm (藥王菩薩本事品, Bhaiṣajyarājapūrvayogaparivartaḥ) với nguyên tác Uragasāracandana (उरगसारचन्दन). Đại Phương quảng Phật Hoa nghiêm kinh大方廣佛華嚴經 (T.09. 0278.59 0778a20) dịch âm là Ưu-đà-già-sa-la chiên đàn (憂陀伽娑羅栴檀). Căn cứ vàoĐà-la-ni tập kinh 陀羅尼集經 (T.18. 0901.1. 0789a09), thì đây là một trong tám loại hương, gồm Uất kim, Trầm thủy, Tô hợp, Huân lục, Hải thử ngạn chiên đàn, Ngưu đầu chiên đàn, Xạ hương và Long não, đó gọi là tám loại hương.[11]
Với lược khảo trên đã phần nào cho thấy dễ phát sinh những bất cập khi chuyển thể kinh điển từ thể Trường hàng sang dạng Kệ tụng. Tuy nhiên, khảo về lịch sửphiên dịchkinh điển trong quá khứ cũng như hiện tại, việc chuyển thể này đã từng được các nhà dịch kinh có thẩm quyền vận dụng và đã có những đóng góp nhất định.
2.2. Thực tiễn việc chuyển thể kinh điển từ văn xuôi sang kệ tụng trong quá khứ cũng như hiện tại.
Trong kinh điển Hán tạng và Nikāya, có lẽ vị đầu tiên dùng thể kệ tụng để tán thán Phật, Pháp và Tăng là nhạc thần Bàn-già-dực (般遮翼),[12] cũng gọi là Nhạc thầnNgũ Kế (五髻, Pañcasikha)[13] với bài kệ tụng ca ngợi tình yêu, ca ngợigiáo phápđi vào lòng người. Tương tự, Tương ưng bộ đã tập hợp những bài kệ tụng tán thánTam bảo và những nhân duyênliên quan của Tỷ-kheo Vaṅgīsa thành một tuyển tập nhỏ, gọi là Tương ưng Vangīsa (Vaṅgīsasaṃyutta). Tuy nhiên, cả hai trường hợp này chỉ dựa theo hoàn cảnhthực tế để diễn kệ mà chưa phải là diễn kệ từ những bài kinh.
Có thể nói, dựa trên nên nội dung kinh để chuyển thể kệ tụng là một dạng thức của Phạm-bối. Phạm-bối, Phạn ngữ ghi là Bhāsa (भास), vốn chỉ cho một thể kịch thơ (dramatic poet)[14] trong văn chươngẤn Độ cổ đại.[15] Theo Phật Quangđại từ điển,[16] Phạm-bối là dùng lời ca và điệu nhạc để tụng kinh, tán vịnh, ca tụngân đức của Phật. Cũng có khi được gọi là Thanh-bối, Tán-bối, Kinh-bối, Phạm-khúc, Phạm-phóng, Thanh-minh… lược xưng là Phạm-bối.
Ở Trung Hoa, sử liệu tương truyền rằng, Trần Tư Vương Tào Thực (陳思王曹植, 192-232) là con thứ của Tào Tháo (曹操, 155-220), vốn là một thi nhân, trong một lần dạo chơi núi Ngư (漁山), nghe trong không gianâm thanhPhạm-tán, nên sau đó đã soạn văn, chế âm, dựa vào kinh Thái tử thụy ứng bổn khởi, mà tạo ra Phạm-bối.[17]Sau sáng tác mang tính khởi đầu của Trần Tư Vương, Ưu-bà-tắc Chi Khiêm (優婆塞支謙) cũng là người thứ hai đã dựa trênKinhVô lượng thọ và Trung bổn khởi, để sáng tác nên Bồ-tát liên cú Phạm-bối (菩薩連句梵唄) theo thể tam khế thanh (thể kệ tụng ba chữ).[18]
Theo dòng chảy lịch sử, để Phật pháp dễ dàng lan tỏa vào quần chúng, nhất là trong giai đoạn mà trình độdân trí cũng như kiến thứcPhật học còn bị giới hạn như ở Việt Nam đầu và giữa thế kỷ XX, đã có nhiều nhà phiên dịch đã mạnh dạn diễn kệ những bài kinh vốn từ thể Trường hàng. Trong số đó có thể kể đến như Kinh A Di Đà theo thể thơ lục bát của HT.Thích Khánh Anh (1895-1961), ở chùa Phước Hậu, Tam Bình, Vĩnh Long; Kinh Diệu pháp liên hoa, phẩm Phổ môn theo thể thơ song thất lục bát của cố HT.Thích Từ Bạch, ở chùa An Phú, Quận 8, Sài gòn… Hòa cùng xu thế này, có nhiều tác giả đã nỗ lực diễn thơ kinh điểnPhật giáo mà ở đây là bản diễn kệ Kinh Vô ngã tướng của Ni trưởng Huỳnh Liên.
3. Vài nhận địnhban đầu thay lời kết luận về bản diễn kệ Kinh Vô ngã tướng của Ni trưởng Huỳnh Liên
Do mục tiêu chủ yếu của bài viết là tập trung vào việc cung cấp những tư liệu mang tính cội nguồn của bài Kinh Vô ngã tướng, cũng như những mở rộngliên quan; thế nên việc khảo sát, đánh giá nội dung bản diễn kệ Kinh Vô ngã tướng của Ni trưởng Huỳnh Liên không phải là trọng tâm của đề tài. Mặc dù vậy, trong khuôn khổ bước đầu, người viết có những nhận định và đề xuất sơ bộ như sau:
Thứ nhất, bản diễn kệ Kinh Vô ngã tướng đã chuyển tải khá đầy đủ những khái niệm, những mệnh đề then chốt so với nguyên tác của bản kinh. Để dễ hình dung, chúng tôi xin lược trích một vài đoạn kinh Tương ưng bộ từ nguyên tác Pāli, bản dịch của HT.Thích Minh Châu và bản diễn kệ theo bảng đối chiếu sau:
Anattalakkhaṇa Sutta (S.22.59-III.66)
Kinh Vô ngã tướng(Hòa thượng Thích Minh Châu dịch)
Kinh Vô ngã tướng (Ni trưởng Huỳnh Liên diễn kệ)
Rūpaṁ, bhikkhave, anattā
Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã.
Dạy năm vị Tỷ-kheo.
Rằng sắc thânvô ngã.
Yasmā ca kho, bhikkhave, rūpaṁ anattā, tasmā rūpaṁ ābādhāya saṁvattati, na ca labbhati rūpe: ‘evaṁ me rūpaṁ hotu, evaṁ me rūpaṁ mā ahosī’ti.
Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: “Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này.
Phàm thức gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả thức cần phảinhư thật quán với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi.
Thức thô, tế, quý, tiện
Thức bên trong, bên ngoài
Thức tam thế cận, viễn
Cũng chỉ là thức thôi.
Các Thầy dùng tuệ trí
Xem thức theo chơn lý
Đó chẳng phải là ta
Của ta, thân ta vậy!
Thứ hai, bản diễn kệ đã lựa chọnthể tài ngũ ngôn tứ tuyệt để chuyển thể, từ ngữ giản dị, vần điệu hài hòa, dễ dàng tụng đọc. Chính vì việc dễ dàng tụng đọc, thế nên trong nghi thứctụng niệm ở một vài chùa đơn lẻ hiện đang sử dụng bản diễn kệ này. Về sự đóng góp của thơ ca thông qua hình thức thi kệ, nói như nhà nghiên cứuvăn học, đồng thời là đệ tử nhà Phật,[19] tên là Lưu Hiệp (劉勰, 465-522), trong tác phẩmVăn tâm điêu long (文心雕龍), khi đề cập đến thể văn chương tụng, tán (頌贊)[20]: Ở trong bốn thể thì tụng là cái cao nhất. Tụng là chứa đựng. Nó dùng để ca ngợi cái đức lớn và thuật lại các hình dung… Tụng là những bài ca chính thức của tôn miếu chứ không phải thứ thơ ca vịnh thông thường lúc yến tiệc.[21]
Thứ ba, về phương diệnhạn chế, trong một số đoạn, bản diễn kệ Kinh Vô ngã tướng có một vài từ, ngữ dường như đi hơi xa so với nguyên tác. Chẳng hạn như thay chữ sắc (rūpa) bằng chữ thân; bổ sung cụm từ bổn ngã vốn không có trong nguyên tác, xin nêu dẫn lại theo bảng sau:
Kinh Tương ưng bộ (S.22.59-III.66)
Diễn kệ Kinh Vô ngã tướng
Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này
Xin thân được thế này
Xin thân đừng thế nọ.
Thế Tôn thuyết như vậy. Nhóm năm vị Tỷ-kheo hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy. Trong khi lời dạy này được nói lên, tâm của nhóm năm vị Tỷ-kheo được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.
Phật giảng kinh vừa dứt
Năm Tỷ-kheo hỷ hoan
Bổn ngã không còn chấp
Lậu hoặc thảy tiêu tan
Theo chúng tôi, nếu như những trường hợp vừa nêu được gia tâm, chăm chút và hoàn thiện thì đây là một bản diễn kệ Kinh Vô ngã tướng vừa trung thành với nguyên tác vừa tạo nên nhiều xúc cảm chân thực trong khi trì tụng.
[1] Ni giới Hệ phái Khất sĩ, Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đời và đạo nghiệp, NXB.Hồng Đức, 2016, tr.138-141.
[2] Hệ phái Khất sĩ, Nghi thứctụng niệm, NXB.Tôn Giáo, 2013, tr.147.
[3] Anattalakkhaṇa Sutta.
[4] Allon, Mark (2020) “A Gandhari Saṃyukta-āgama Version of the ‘Discourse on Not-self’ (Pāli: Anattalakkhaṇa-sutta, Sanskrit: Anātmalakṣaṇa-sūtra)” in Dhammadinnā, ed. Research on the Saṃyukta-āgama. Dharma Drum Institute of Liberal Arts Research Series, pp.201-258. Taipei: Dharma Drum Publishing Co.
[6] Nam Hải ký quy nội pháp truyện 南海寄歸內法傳 (T.54. 2125.2. 0216c06-0216c11): 然依佛教苾芻亡者觀知決死當日舁向燒處尋即以火焚之當燒之時親友咸萃在一邊坐或結草為座或聚土作臺或置甎石以充坐物令一能者誦無常經半紙一紙勿令疲久(其經別錄附上) 然後各念無常還歸住處.
[7] Phật thuyếtvô thường kinh 佛說無常經 (T.17. 0801. 0745b07-0747a15).
[8] Cullavagga (Tiểu phẩm), chương “Các tiểu sự” (khuddakavatthukkhandhakaṃ), tụng phẩm thứ ba, đoạn 180, bản dịch tiếng Việt của Tỷ-kheo Indacanda.
[9] Lamotte, Étienne., History of Indian Buddhism. Paris: Institut Orientaliste Louvain-La-Neuve, 1988, p.555.
[10] Nguyên tác: Chiên đànhải ngạn. Lô nhiệt danh hương. Da-du mẫu tử lưỡng vô ương. Hỏa nội đắc thanh lương. Chí tâm kim tương. Nhất chú biến thập phương. (栴檀海岸. 爐爇名香. 耶輸母子兩無殃.火內得清涼. 至心今將.一炷遍十方). Xem thêm, Pháp hoa kinhtam đại bộ bổ chú 法華經三大部補注 (X.28. 586.11. 0354c05).
[11] 八種香謂欝金沈水蘇合薰陸海此岸栴檀牛頭栴檀麝香龍腦香是八種香.
[12] Xem, Thích-đề-hoàn-nhân vấn kinh 釋提桓因問經 (T.01. 0014. 0062b28).
[13] Xem, Thích vấn kinh 釋問經 (T.02. 0026. 134. 0632c28).
[14] M.Monier-Williams, A Sanskrit English Dictionary. Springfield, VA: Nataraj Books, 2014, p.756.
[15] T.R.S. Sharma. Ancient Indian Literature: Vedic Sanskrit and Pāli, Vol 2. Delhi: Sahitya Akademi, 2004, p.263.
[16] Phật Quangđại từ điển, tập 4, Sa-môn Thích Quảng Độ dịch, Hội Văn hóaGiáo dụcLinh Sơn Đài Bắc, xuất bản, 2000, tr.4032-4034.
[17] Xem, Cao Tăng truyện 高僧傳 (T.50. 2059.13. 0415a13); Phật Tổ thống kỷ 佛祖統紀 (T.49 2035.35. 0331c03).
[18] Lịch đại Tam bảo ký 歷代三寶紀 (T. 49. 2034.5. 0058c14-0059a17).
[19] Lưu Hiệp (劉勰) làm quan Thông sự xá nhân (通事舍人) dưới triều Lương Vũ Đế (梁武帝, 464-549), vào năm Đại Đồng thứ tư (538) phát nguyệnxuất gia, được vua Lương Vũ Đế ân ban tên là Tuệ Địa (慧地). Xem tại, Phật Tố thống kỷ (T.49. 2035.37. 0351a26).
[20] Nguyên tác: 劉勰, 文心雕龍, (頌,贊第九), 四始之至,頌居其極. 頌者,容也,所以美盛德而述形容也…斯乃宗廟之正歌,非宴饗之常詠也.
[21] Lưu Hiệp, Văn tâm điêu long, Phan Ngọc dịch, NXB.Lao Động, 2007, tr.51.
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
Trí Tuệ Bát Nhã, thần thôngquảng đại, nhận thức được thực tướng của vạn Pháp. Trí Tuệ (wisdom) bao gồm cả kiến thứcbác học, kiến giác, chứng nghiệm, tâm lý, tâm linh...
Kinh Lăng-già tên gọi đầy đủ là Thể Nhập Chánh PhápLăng-già, cuối chương १० सगाथकम्। (10-sagāthakam), biên tập bởi Nanjō Bunyū 南條文雄 (laṅkāvatāra sūtra, kyoto, 1923)
Bước đầu tiên để bước vào con đườngPhật giáo là quy y Tam Bảo, và viên ngọc đầu tiên trong ba viên ngọc mà chúng ta tiếp cận để quy y là Đức Phật, Đấng Giác Ngộ.
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệLục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.