Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Huyền Lực Từ Những Trang Kinh

21 Tháng Mười Một 202206:01(Xem: 1370)
Huyền Lực Từ Những Trang Kinh
Huyền Lực Từ Những Trang Kinh

Huỳnh Ngọc Chiến

Huyền Lực Từ Những Trang Kinh


Lịch sử
 tư tưởng và tôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết, khi vừa đản sinh đã bước đi bảy bước trên tòa sen để tuyên bố “Thiên thượng thiên hạ duy Ngã độc tôn.” Chúng ta không cần phải thắc mắc về tính hợp lý của sự kiện và câu nói đó, vì chúng chỉ mang tính biểu tượng, như nhiều sự kiện trong mọi tôn giáo khác, mà chỉ nên lưu ý rằng trong suốt 49 năm thuyết pháp của đức Phật, nội dung câu nói đó được thể hiện trong tất cả những trang kinh.

Ngã ở đây, theo thiển ý của tôi, hoàn toàn không có liên quan gì đến khái niệm Ngã thông thường trong kinh điển, và đối lập với nó là khái niệm Vô Ngã. Trong tư tưởng Phật giáo, liệu có một cái Ngã nào tồn tại trong chủ trương “tứ đại giai khôngngũ uẩn phi hữu”? Hay có một cái Ngã nào đứng vững trước cơn lốc phủ định toàn triệt bằng “vô, phi, bất” trong Bát Nhã Tâm Kinh? Ngã ở đây là cái Tâm Minh Linh hay Tuệ Giác, phát sinh từ cảnh giới thánh trí tự chứng. Đây là ánh sáng chiếu ra từ cảnh giới “căn bản triệt ngộ” (mũlamantra) xua tan hết những bóng đêm huyền thoại về những giá trị tối linh trong cõi thế. Những giá trị tối linh trong các tôn giáo luôn được xác lập do thiên khải hay từ một thế lực siêu nhiên, để đảm bảo tính chất phi phàm của chúng. Đấng tiên tri Moses của Thiên Chúa giáo nhận lãnh giáo huấn và luật pháp từ Thiên Chúa trên đỉnh núi Sinai; đấng tiên tri Muhammad của Hồi giáo thì dựa vào sự khải thị của thánh Allah để thuyết lại kinh Qur’an; đến cả một triết gia trần tục nhất là Khổng Tử của Trung Quốc cũng phải dựa vào hình tượng Nghiêu, Thuấn, Chu Công, v.v… Chỉ đức Phật là đấng duy nhất tuyên bố mình là người tìm ra chân lý bằng tuệ giác, và đem chân lý ấy phổ biến cho khắp cõi thiên nhân. Ánh sáng từ tuệ giác đó phổ chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới để con người nhìn ra cấu trúc vĩ đại toàn bích của vũ trụ theo thuyết duyên khởi, và khai mở hết thảy những điều huyền mật của nhân sinh. Những giá trị siêu nhiên, những thứ từng đem thần thánh phủ bóng lên trí não nhân loại, bị đẩy hết vào quá khứ, để Trí Tuệ Viên Mãn được toàn nhiên thị hiện. Cảm nhận được điều đó ta mới nhận ra được diệu nghĩa trong thông điệp “Thiên thượng thiên hạ duy Ngã độc tôn!” Ở một góc độ nào đó, ta có thể so sánh Ngã trong thông điệp này với sự xuất hiện của Lý Tính, mở đầu cho Thời kỳ Khai Sáng (Age of Enlightenment) ở Châu Âu vào đầu thế kỷ 18, xua tan bóng đêm thời Trung Cổ. Thông điệp của đức Phật cũng xua tan hết những bóng tối u ám của thần linh, để mở ra những phương trời bao la của giác ngộ.

Cảnh giới thánh trí tự chứng trong đạo Phật có thể ví như một ngọn lửa. Ngọn lửa đó có thể được thắp sáng bằng cả một rừng cây, một thân cây, một bếp lửa, một ngọn đèn, hay thậm chí chỉ bằng một que diêm, v.v… nhưng hễ lửa còn cháy thì tính lửa kia không mất. Chính cảnh giới thánh trí tự chứng mới đem lại huyền lực cho kinh điển Phật giáoKinh điển Phật giáo chỉ được thắp sáng bằng ngọn lửa trí tuệ, chứ không phải bằng một thứ gì khác. Tất cả những thứ khác đều là “quách nhiên vô thánh”, theo tinh thần của Tổ Đạt Ma trả lời Lương Võ Đế, một khi ta chưa cảm nhận được huyền lực từ những trang kinh. Huyền lực đó được nuôi dưỡng bằng cảnh giới thánh trí tự chứng. Đó là cảnh giới tối thắng của “duy Ngã độc tôn.
Một khi đã cảm nhận được huyền lực từ những trang kinh thì sự tu học của một hành giả sẽ không còn bị câu nệ vào những hình thức khô cứng. Một ngôi chùa chân chính được nuôi dưỡng bằng huyền lực từ những trang kinh sẽ tự nhiên biến thành một đạo tràng thuần tuý để tu học. Đó sẽ là nơi trang nghiêm của Trí Tuệ để con người nương theo lời Phật dạy mà tìm cầu giải thoát, chứ không phải là địa điểm du lịch hay tổ chức từ thiệnma chay, v.v…
Tôi có chút cơ duyên với Phật pháp nên thường tìm đọc, dịch kinh điển, để học hỏi và tĩnh tâm. Và mỗi khi đọc, dịch tôi thường cảm nhận được huyền lực từ từng câu kinh. Mỗi chữ đều là cam lồ, mỗi câu đều là pháp bảo. Khi đang dịch bộ Lăng Già được hơn một nửa thì tôi mang bịnh nặng. Tôi cầu Tam Bao gia hộ cho tôi đủ sức khỏe để hoàn tất công trình. Những đêm gượng đau để dịch kinh, tôi thấy tâm lạc lạ thường, dù thân không an lắm. Dịch đến đoạn đức Phật cũng phải bao phen chịu khổ nạntự nhiên tôi thấy bệnh tật như tan biến hết, thân tâm thư thới. Tôi tin rằng huyền lực đó đến từ những trang kinh, khi ta đọc kinh bằng cả tâm nguyện “tín, giải, thọ, trì.” Từ đó, tôi lại thêm tin vào sức mạnh của kinh điển. Mỗi trang kinh, thậm chí mỗi câu kinh, không chỉ mở rộng tâm thức ta ra trước những phương trời tư tưởng bất khả tư nghì, mà còn có sự tác động vi tế đến thân tâm. Khi dich xong cuốn kinh Lăng Già, và được một nhà xuất bản nhận in, thì tác phẩm L’Enseignement de Vimalakīrti – bản dịch cuốn kinh Duy Ma sang Pháp ngữ từ Tạng ngữ – của Étienne Lamotte lại cuốn hút tôi. Và tôi lại bắt tay vào dịch bộ kinh phương đẳng kỳ diệu này. Vì dịch kinh có nghĩa là đọc kinh thật kỹ qua từng câu chữ. Tôi xem đây như là một Cuộc Chơi Chuyển Nghiệp khi tiếp cận bến bờ sinh tử, và làm một bài thơ:

Gượng đau ngồi dịch Lăng Già
Xong, lại mơ cõi Duy Ma phiêu bồng
Để mai về bến sương hồng
Trong tâm còn lại đôi dòng chân kinh
Bước chân qua cõi tử sinh


Khi trong tâm vẫn “còn lại đôi dòng chân kinh”, nghĩa là khi ta vẫn còn tiếp nhận được nguồn huyền lực từ những trang kinh Phật, tôi tin rằng ta vẫn có thể an nhiên tự tại để có thể một mình đi suốt cõi sinh tử luân hồi.

Sài Gòn 09.12.20, những ngày điều trị bệnh


Ghi chú : Bài này được viết để đăng trong số xuân Tân Sửu (2021) của tạp chí Liễu Quán, Huế. Do Ban biên tập chưa chia sẻ ý tưởng với người viết nên đã sửa đổi đoạn cuối, làm lệch đi ý nghĩa của từ “Cuộc Chơi” theo tinh thần Das Spiel của Heidegger và Nietzsche.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7458)
Trời mưa, trời nắng là chuyện bình thường. Thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa, không thể nào bầu trời không mưa hay...
(Xem: 18248)
“Ăn Cơm Hương Tích, uống Trà Tào Khê, ngồi Thuyền Bát Nhã, ngắm Trăng Lăng Già”...
(Xem: 9400)
Tánh Không với hàm ý bản thể của thế giới, vạn vật đều là không, nghĩa là không có thật, không có thực thể, không có...
(Xem: 8039)
Có một thực tế hiển nhiên cần được ghi nhận rằng, không phải ai cũng hiểu đúng về lời dạy của Đức Phật, ngay cả khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 9032)
Vị thế tối thượng ở đời được Thế Tôn xác lập dựa vào sự kết tinh của tu tập giới định tuệ và thành tựu giải thoát.
(Xem: 7601)
Một thời Thế Tôn du hành giữa dân chúng Kosala, tại thị trấn của người Kàlàmà, ở Kesaputta. Rồi các người Kàlàmà đi đến đảnh lễ...
(Xem: 8258)
Cuộc sống ngày nay, khó mà thoát ly hoàn toàn, vì cơ chế và nhịp sống của nhân loại theo đà tiến hóa khoa học và...
(Xem: 9291)
Hãy trân quý những gì đang có, giải thoáthạnh phúc ở trong lòng bàn tay của bạn! Xin hãy mỉm cười...
(Xem: 9389)
Trong Phật giáo các từ ngữ như “chánh ngữ” và “ái ngữ” luôn luôn được đề cập tới để khuyên dạy các Phật tử khi sử dụng tự do ngôn luận.
(Xem: 9060)
Theo Phật giáo Nam truyền, ngày Đản sanh, Thành đạo và nhập Niết-bàn của Đức Phật đều diễn ra vào ngày trăng tròn tháng Vesākha
(Xem: 7833)
Trong cái thấy của kinh Pháp Hoa thì tất cả vũ trụ là một. “Tất cả các cõi nước thông làm một cõi nước Phật”
(Xem: 11393)
Trong những bộ Kinh chúng ta học thường thấy hai từ Giác NgộGiải Thoát. Tất cả người tu học đều lấy hai từ đó làm cứu cánh để đi tới.
(Xem: 8895)
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh đại thừa Phật giáo.
(Xem: 8304)
Thập hiệu Như Lai, là những danh hiệu cao quý để tôn xưng những bậc đã thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
(Xem: 8213)
Cầu nguyện là một phương pháp tâm linh giúp cho con người chúng ta có thể tháo gỡ một phần nào những nỗi khổ niềm đau,
(Xem: 8208)
Tam Bảo như lãnh vực hoạt động của mặt trời. Lòng bi mẫn của các ngài thì vô tư và không bao giờ cạn kiệt.
(Xem: 6431)
Bốn Đại nguyện của giáo lý đại thừa được triển khai trên sự thực hành giáo lý Tứ Diệu Đế...
(Xem: 7816)
Một thời Đức Phật cư trú gần Bārānasī(Ba La Nại), ngài đã nói bài kệ nầy, về Vua Rồng Erakapatta.
(Xem: 7651)
Tất cả các tính đức là kết quả đến từ tinh tấn, nguyên nhân của hai tích tập phúc đứctrí tuệ. Trí địa thứ tư ngọn lửa trí huệ của...
(Xem: 7632)
Ngọn lửa trí tuệ phát ra ánh sáng khi đốt cháy các hiện tướng nhị nguyên đối đãi của các hiện tượng, do thế trí địa thứ ba được gọi là Phát quang địa.
(Xem: 8614)
Ngũ uẩn giai không 五蘊皆空 nghĩa là năm uẩn đều không có thật. Chữ uẩn 蘊 (skandha) còn gọi là ấm 陰 Uẩn là nhóm hay tập hợp hoặc tích hợp.
(Xem: 8112)
Như Lai thọ lượng là phẩm thứ 16 của kinh Pháp Hoa.
(Xem: 8502)
Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về chư tăng.
(Xem: 11374)
Đối với nhiều người, Phật Giáo vượt ra ngoài tôn giáo và là một triết lý hay "lối sống" hơn. Đó là một triết lý, vì triết lý “có nghĩa là tình yêu của trí tuệ”
(Xem: 8500)
Khi người ác xúc-phạm người hiền lành và vô tội, thì hậu-quả của hành-động ác nầy, đánh ngược lại người làm-ác, cũng giống như khi ném bụi bẩn ngược chiều gió, bụi bẩn bay ngược lại người ném.
(Xem: 7630)
Trong khi cư trú tại Tu Viện Trúc Lâm (Veluvana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về một nữ cư sĩ, tên là Uttarā.
(Xem: 7218)
Món quà tặng về Phật Pháp, cao quý hơn tất cả những món quà tặng khác, Hương vị Phật Pháp, thơm ngọt hơn tất cả những hương vị khác
(Xem: 8486)
Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về Tôn Giả A-Nan.
(Xem: 6394)
Trích dịch Chương Thứ Nhất của Tác Phẩm “Buddhism - One Teacher, Many Traditions [Phật Giáo - Một Vị Thầy, Nhiều Truyền Thống]
(Xem: 8460)
Hồi đầu là quay đầu trở lại hay xoay đầu trở lại. Thị ngạn: chính ngay đó là bờ mé. Đây là một câu người học Phật thường nghe nói.
(Xem: 9503)
Đức Phật dạy giáo lý Nghiệp với mục đích khuyến khích con người thực hành các Nghiệp lành để trang nghiêm cho kiếp sống hiện tại và...
(Xem: 8444)
Bước ngoặt quan trọng nhất trong tiến trình nhận thức của con người có lẽ là khi chúng ta bắt đầu nhận thức về chính bản thân mình.
(Xem: 9416)
Cái Thấy là một biểu hiện của sức sống bản nhiên, là sinh lực thường hằng vượt lên trên mọi giới hạn về thời gian (lúc thức, lúc ngủ, khi sống và cả khi chết…)
(Xem: 8057)
Giáo pháp của Vimalakirti trình bày các giáo pháp tinh yếu của Phật giáo Đại thừa trong 14 chương tương đối ngắn.
(Xem: 7229)
Trung luận, do Bồ-tát Long Thọ làm ra. Được viết dưới dạng kệ tụng. Có khoảng 500 bài kệ. Mỗi bài kệ có 4 câu
(Xem: 9987)
Nói chung, không dễ gì lưu lại ngọc xá lợi, không dễ gì thành tựu đạo quả qua quá trình tu chứng với những kiếp tái sinh nối tiếp trong thiện đạo.
(Xem: 15108)
Này các Tỷ kheo, trong toàn thế giới, Thiên giới, Ma giới, cùng với quần chúng Sa môn, Bà la môn, chư Thiênloài người, Như Lai là bậc chiến thắng, không bị ai chiến bại, toàn trí, toàn kiến, đại tự tại.
(Xem: 9487)
Khi thảo-luận về một ngón-tay, thì ngón-tay có phải là sự-thật không? Có phải chỉ có một ngón-tay duy-nhất, là có thể chỉ đúng vị-trí mặt trăng không?
(Xem: 7999)
Kim Cang dạy rất kỹ. Thấy “thường” đã sai mà thấy “đoạn” càng sai. Thấy có đã sai mà thấy không càng sai. Bồ tát thì “bất tận hữu vi bất trụ vô vi”.
(Xem: 8003)
Phu nhân Thắng Man sau khi phát mười hoằng thệ xong, trên hư không hoa trời liền rơi, nhạc trời liền trổi, chúng thấy điềm lành đó cũng đồng phát nguyện:
(Xem: 8054)
Ở trí địa Li cấu, bởi vì các bồ tátgiới hạnh toàn hảo, nên tự nhiên buông bỏ các hành vi sai lạc dù trong chiêm bao.
(Xem: 7996)
Thanh VănĐộc giác sinh từ chư Tối Thắng (chư Phật); chư Phật sinh từ chư Bồ tát. Đại bi, tính bất nhị, và tâm Bồ đề là những nguyên nhân của chư Tối Thắng Tử
(Xem: 8058)
Ngoại trừ các bậc tự chủ lẽ sống chết thì hầu hết chúng sanh đều không biết được thời điểm lâm chung của mình, nên khó có thể tự chủ tâm tư khi hấp hối.
(Xem: 7754)
Hakuin Ekaku (Bạch Ẩn Huệ Hạc, 白隠 慧鶴?, January 19, 1686 - January 18, 1768) là một thiền sư Nhật nổi tiếng đã có công gây dựng lại dòng thiền Lâm Tế ở Nhật Bản
(Xem: 8768)
Vua A Xà Thế vốn là vị vua có tài, nhờ Phật chuyển hóanhận ra sai lầm, biết sám hối, ăn năn, làm mới lại chính mình, làm lại cuộc đời.
(Xem: 7986)
Muốn thấy được Phật tánh thì phải dừng nghiệp thức. Nghiệp thức không dừng không bao giờ chúng ta thấy được tánh Phật.
(Xem: 8535)
Vượt thoát bể khổ, hẳn không ra ngoài chữ buông. Từ buông vật tài, đến buông thân, rồi buông vọng tưởng, âu là lộ trình vật vã.
(Xem: 10513)
Trong nền văn hóa 5000 năm của con người, mỗi con số không đơn thuần chỉ là con số khô khan mà tất cả con số đều có một ý nghĩa đặc biệt của vũ trụ huyền bí.
(Xem: 8059)
Đây là bốn Chân lý cao quý. Này chư tăng! Những gì là bốn? Các Chân lý cao quý về khổ, về nguồn gốc của khổ, về sự chấm dứt của khổ, và Chân lý cao quý về phương pháp dẫn đến sự chấm dứt của khổ.
(Xem: 11061)
Trong kinh có ghi lý do Đức Phật xuất hiện nơi đời chỉ vì một đại sự nhân duyên lớn đó là Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến...
(Xem: 8760)
Cùng một việc dứt thở, bỏ xác, tại sao ở người thế-gian, gọi là chết, còn ở Phật lại gọi là “nhập Niết-bàn”?
(Xem: 7906)
Sống, theo tính chất duyên sinh, là sống với, liên hệ với; không ai sống mà không có mối tương quan với người khác.
(Xem: 7594)
Vào đầu thế kỷ 12, quân Hồi giáo đã xâm chiếm Ấn-độ, với bản chất tàn bạo họ đã tàn sát các Tăng Ni, Phật tử, đốt sạch các Kinh điển Phật giáo...
(Xem: 8496)
Như Lai là một trong mười danh hiệu của Thế Tôn. Vậy thế nào là “Pháp” và tu học như thế nào để “thấy Pháp”.
(Xem: 8037)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo của vũ trụ. Nó cao cả hơn một thượng đế nhân tạoloại bỏ những giáo điềuthần học.
(Xem: 8560)
Nhập Trung đạoCon đường Bồ tát tích hợp đại bitrí tuệ, khởi hành từ đại bi và tích hợp với tính bất nhị và tâm bồ đề.
(Xem: 8014)
Thanh VănĐộc giác sinh từ chư Tối Thắng (Chư Phật) Chư Phật sinh từ chư Bồ tát. Đại bi, tính bất nhị, và tâm Bồ đề là những nguyên nhân của chư Tối Thắng Tử (Chư Bồ tát)
(Xem: 8023)
Bộ luận này, giải thích một cách không sai lạc tri kiến của ngài Long Thọ, được tích hợp từ Trung Lu
(Xem: 7185)
Theo kinh điển Nguyên thủy của Phật giáo Nam tông, Bồ tát Đản sanh, Bồ tát thành Đạo và Phật nhập Niết-bàn đều diễn ra vào ngày trăng tròn tháng tư âm lịch.
(Xem: 8411)
Tập tục dâng hương là một đạo lý truyền thống của dân tộc có từ ngàn xưa, đây là những gia bảo tinh thần đáng quý của tổ tiên để lại cho con cháu kế thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant