Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hãy Nghĩ Về Nhân Quả

16 Tháng Mười Hai 202209:33(Xem: 1643)
Hãy Nghĩ Về Nhân Quả
Hãy Nghĩ Về Nhân Quả

Vu Gia


Giữ Năm Giới Có Đủ Đảm Bảo Được Tái Sinh Làm Người


Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi, thì việc trả quả không còn là vấn đề phải suy nghĩ nữa. Có vay thì phải trả, không trả với hình thức này thì cũng phải trả với hình thức khác.
 

Thời gian gần đây, các phương tiện truyền thông đại chúng phản ánh những vụ việc mà tôi tin đã là con người thì không ai không buồn, không ai không bức xúc: bạo lực gia đình, bạo lực học đường, bạo lực diễn ra từ thành phố tới thôn quê, từ miền xuôi đến mạn ngược, không ở đâu không có. Ngay cả sĩ quan công an (cấp hàm từ trung úy đến đại úy - Công an thị xã Vĩnh Châu, Sóc Trăng) cũng đã có hành vi sử dụng bạo lực (dùng tay, chân, gậy nhựa điều khiển giao thông, mũ bảo hiểm đánh 2 thiếu niên) được cộng đồng mạng phát tán và báo chí vào cuộc từ những ngày cuối tháng 9 vừa qua. Sao thế nhỉ? Hầu như ở đơn vị công an nào cũng ghi trân trọng “6 điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân” và để ở chỗ dễ thấy nhất.

Trước khi đề ra “6 điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân”, Bác có viết: “Công an của ta là Công an nhân dân, vì dân mà phục vụ và dựa vào dân mà làm việc”. Trong 6 điều dạy ấy, có điều: “Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép”. Quên chăng? Nghĩ tới chẳng vui chút nào.

Gieo nhân xấu ắt phải gặt quả xấu, tôi tin như thế và chắc nhiều người cũng tin như thế. Quả báo nhãn tiền là như thế. Lâu nay, nhiều người hiểu chưa mấy đúng về câu nói “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, nên có khi cho rằng tôi tuyên truyền tôn giáoSự thật, Karl Marx đã đưa ra luận điểm “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” trong Lời nói đầu của tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen”. Trước khi đưa ra luận điểm này, Karl Marx đã nêu lên một loạt các định nghĩa về tôn giáo một cách đầy hình tượng: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim cũng giống như nó là tinh thần của những điều kiện xã hội không có tinh thần, là hạnh phúc hư ảo của nhân dân, là bông hoa giả… Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”1. Trước đó, trên một số diễn đàn khoa học ở Đức, cũng có một số người thường ví tôn giáo với thuốc phiện bởi thời bấy giờ, thuốc phiện được coi là thứ thuốc giảm đau mà các bác sĩ thường sử dụng để trị bệnh. Song, ngày đó ở Đức, nhà nước đã lợi dụng tôn giáo để đàn áp nhân dân và chống lại những xu hướng tiến bộVì vậy, Karl Marx mong muốn: “nhất thiết không để cho người Đức có một phút nào ảo tưởng và nhẫn nhụccần phải làm cho ách áp bức nặng nề hơn nữa bằng cách gắn vào nó cái ý thức về ách áp bứccần phải làm cho sự ô nhục ngày càng ô nhục hơn bằng cách công bố nó lên… cần phải dạy cho dân khiếp sợ để tiêm vào họ dũng khí đấu tranh”2.

Khi nêu lên luận điểm “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, Karl Marx đã coi tôn giáo như một liều thuốc xoa dịu những nỗi đau thực tạiThực tế là, đến tận bây giờ đối với các bệnh nhân, các bác sĩ vẫn sử dụng một liều lượng thuốc phiện nhất định để giúp họ vượt qua những cơn đau thể xác. Theo nghĩa khác, tôn giáo cũng là sự “ru ngủ” bằng những hạnh phúc ảo tưởng, làm tê liệt ý chí đấu tranh của nhân dân, và vì vậytôn giáo hay thuốc phiện cũng đều không thể nào xoá bỏ đi những nỗi đau thực tế. Nhưng theo tinh thần đạo Phật, “Ai sống trên đời này/ Hàng phục được dục ái/ Khổ đau sẽ vượt khỏi/ Như nước trượt lá sen” (Kinh Pháp Cú, số 336).

Tuy nhiên, theo Karl Marx, tôn giáo không chỉ là thuốc phiện ru ngủ và xoa dịu nỗi đau con người mà còn là sự thức tỉnh trái tim con người: “thật nghịch lý là, thay vì tác động ru ngủ, thuốc phiện lại gây tác động thức tỉnh”3. Ở góc độ này, Karl Marx đã nhận ra tính tích cực của tôn giáo trong cuộc đấu tranh giải phóng con người, là vũ khí đấu tranh của con người khi gắn liền với các cuộc đấu tranh, các cuộc cách mạng xã hội. Do đó, nếu “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” theo cách nghĩ dung tục, nó làm cho con người sa đọa, thì tôn giáo không tồn tại đến ngày nay.

Nghĩ cho cùng, nhân tính rất phức tạpthiện ác cùng tồn tại, có vài người làm ác nhưng trong lòng chưa hẳn không có một chút thiện niệm; có vài người là thiện nhưng trong lòng chưa hẳn không có hiện lên ác niệm.

Viết đến đây, tôi bỗng nhớ trong Kinh Tương ƯngĐức Phật đã nói: “Tin ta mà không hiểu ta là phỉ báng ta” và Ngài thể hiện rõ điều ấy với Kalamas như sau:

Chớ vội tin ai vì đó là truyền thống do nhiều thế hệ để lại.

Chớ vội tin ai vì đó là tin đồn được nhiều người nói tới.

Chớ vội tin ai vì được viết thành sách bởi một nhà hiền triết cổ xưa.

Chớ vội tin ai vì điều anh thích thú cho là tận tụy và nghĩ rằng đó là phải do Thần hay nhân vật nào kỳ diệu truyền đạt lại… chỉ khi quan sát, phân tích thấy rằng đó là điều hợp lý đem lại tốt lành, có lợi ích cho bản thân và cho mọi người thì hãy chấp nhận theo điều đó và sống với điều đó4.

Do đó, không một Thượng đế nào ban cho hạnh phúc, cũng chẳng có Thần linh nào giáng họa, mà hành nghiệp của chính mình làm cho mình trở nên hạnh phúc hay khổ đau, chứ không hề tồn tại một ai ngoài ta có quyền năng ban phước hay giáng họa cho chính bản thân mình. Nói đến nghiệp quả, không ai không nhớ đến tiếng than như cam phận, như bừng tỉnh của Nguyễn Du: “Đã mang lấy nghiệp vào thân/ Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa” (Nguyễn Du, Truyện Kiều).

Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi, thì việc trả quả không còn là vấn đề phải suy nghĩ nữa. Có vay thì phải trả, không trả với hình thức này thì cũng phải trả với hình thức khác. Nghĩ vậy, sẽ thấy cuộc sống đáng yêu hơn.

 


1. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, H, 1995, T. 1, trang 437-570.

2. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, T.1, sđd, trang 574.

3. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, H, 2004, T. 15, trang 682.

4. Thích Minh Châu (dịch, 1991), Kinh Tương Ưng 1, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, TPHCM, trang 337-347.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 55)
Phân biệt phước đức và công đức là cần thiết cho việc học và hành đạo Phật.
(Xem: 95)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(Xem: 215)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 250)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 265)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 326)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 251)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 304)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 438)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 387)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 351)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 435)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 654)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 510)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 523)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 619)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 807)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 879)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 901)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 886)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 768)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 744)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 747)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 850)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 866)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 971)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 752)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 643)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 748)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 859)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 757)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 757)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 872)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 903)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 858)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 908)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 943)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 930)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1130)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 994)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1719)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1105)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1239)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 982)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1250)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1153)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1160)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1318)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1610)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2077)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1138)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1390)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1135)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 980)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1083)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1134)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1557)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1318)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1334)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant