Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vài Suy Nghĩ Về Tượng Pháp Của Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di Ở Việt Nam Hiện Nay

21 Tháng Mười 202319:26(Xem: 1361)
Vài Suy Nghĩ Về Tượng Pháp Của Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di Ở Việt Nam Hiện Nay

Vài Suy Nghĩ Về Tượng Pháp Của
Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di Ở Việt Nam Hiện Nay

Chúc Phú

 sen



Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayāquá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia sau khi vua Tịnh Phạn băng hà. Đây là sự thật được xác tín bởi nhiều nguồn tư liệu lịch sử. Với cái nhìn sơ khởi, có thể thấy Di mẫuMahāpajāpatī Gotami xuất gia khi đã lớn tuổi. Có lẽ do chưa nắm bắt đầy đủ về yếu tố này cũng như các điều kiện đặc hữu của Di mẫu mà nhiều họa sĩ, điêu khắcgia đã phóng tác nên những tôn tượng được định danh là Di mẫu Kiều-đàm-di nhưng chỉ dựa trên cảm xúc nghệ thuật mà không dựa trên cơ sở lý luận.

Bài viết ngắn này cố gắng phác thảo vài nét về chân dung của Di mẫu Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di dựa trênnhững cứ liệu kinh điển khả tín. Qua đó, cung cấp một số dữ kiện quan trọng để các nhà tạo tượng có thêm cơ sở để thể hiện gần đúng về tôn dung của một bậc khai tổ của Ni chúng.

1. Vài nét về lịch sử và chân dung Di mẫu Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di


Về tên gọi, kinh điển Pāli đều thống nhất ghi là Mahāpajāpatī Gotami, tuy nhiên ở Hán tạng thì tên của bà được thể hiện rất đa dạng, vì có khi được dịch nghĩa, có lúc được dịch âm, như: Kiều-đàm-di (憍曇彌), Ma-ha Ba-xà-ba-đề (摩訶波闍波提), Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di (大愛道憍曇彌), Đại Ái ĐạoCù-đàm-di (大愛道瞿曇彌), Đại Ái Đạo (大愛道), Đại Thắng Sanh Chủ (大勝生主), Đại Sanh Chủ (大生主)… Trong những danh xưng này thì tên gọi Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di (大愛道憍曇彌) có lẽ sát với nguyên tác Pāli: Mahāpajāpatī Gotami.

Theo Ký sự về các Trưởng lão Ni (Therī Apadāna), thuộc tác phẩm Thánh nhân ký sự (Apadāna), Di mẫu sinh ra ở thành phố Devadaha, cha tên là Añjana, thuộc dòng Sākya, mẹ tên là Sulakkhaṇā[1]. Như vậy, Di mẫu vốn xuất thân từ hoàng gia, sống với phong cách của hoàng gia.

Có một sự kiện được kinh Cù-đàm-di kinh (瞿曇彌經) thuộc Trung A-hàm ghi nhận về khả năng dệt vải và may vá của Di mẫu.

 Kinh ghi:

Bấy giờ, Ma-ha-ba-xà-ba-đề Cù-đàm-di đem một chiếc mới màu vàng, được dệt bằng kim tuyến đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật rồi ngồi sang một bên và thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con đã tự tay cắt may chiếc mới màu vàng dệt bằng kim tuyến này cho Thế Tôn. Cúi mong Thế Tôn thương con mà thọ nhận.

Đức Thế Tôn bảo:

- Này Cù-đàm-di, hãy đem này cúng dường cho chúng Tỳ-kheo. Dâng cúng cho chúng Tỳ-kheo là đã cúng dường Như Lai, cũng là cúng dường đại chúng.

Đại Sinh Chủ Cù-đàm-di lại thưa đến lần thứ ba:

- Bạch Thế Tôn! Con đã tự tay cắt may chiếc mới màu vàng dệt bằng kim tuyến này cho Thế Tôn. Cúi mong Thế Tôn thương con mà thọ nhận.

Đức Thế Tôn cũng ba lần bảo:

- Này Cù-đàm-di, hãy đem này cúng dường cho chúng Tỳ-kheo. Dâng cúng cho chúng Tỳ-kheo là đã cúng dường Như Lai, cũng là cúng dường đại chúng[2].

Chi tiết này đã phần cho cho thấy, Di mẫu là người có khả năng lao động, tháo vát.

Kế đến, theo Tiểu phẩm (Culla Vagga), sau khi cầu thỉnh Đức Phật xin được xuất gia tại quê nhàKapilavatthu nhưng bị từ chối, Di mẫu đã đi bộ một khoảng đường rất dài để đến Vesālī. Luật ghi:

Sau đó, Đức Thế Tôn khi đã ngự tại thành Kapilavatthu theo như ý thích đã ra đi du hành đi về phía thành Vesālī. Trong khi tuần du hành, Ngài đã ngự đến thành Vesālī. Tại nơi đó, trong thành Vesālī, Đức Thế Tôn ngự tại Mahāvana (Đại Lâm), giảng đường Kūṭāgāra.

Khi ấy, bà Mahāpajāpati Gotamī đã nhờ người cạo tóc, khoác y phục màu ca-sa cùng với nhiều người nữ dòng Sākya đã ra đi về hướng thành Vesālī, tuần tự đã đi đến thành Vesālī, Mahāvana, giảng đường Kūṭāgāra. Khi ấy, bà Mahāpajāpati Gotamī với hai bàn chân sưng vù, thân hình phủ đầy bụi bặm, khổ sở, buồn rầu, mặt mày ủ dột, đang đứng khóc lóc ở bên ngoài cổng ra vào[3].

Có thể thấy, khoảng cách từ Kapilavatthu đến Vesālī rất xa. Theo tính toán của bản đồ google ngày nay thì khoảng cách đó hơn bốn trăm km. Vào thời Phật, quãng đường đó có thể dài hơn. Chi tiếtbàn chân sưng vù phần nào cho thấy sự vất vả của hành trình này. Ở đây, Tiểu phẩm đã cung cấpthêm một dữ liệu cho thấy sức khỏe và khả năng đi bộ của Di mẫuđặc biệt, đây là lúc Di mẫu đã nhiều tuổi. Vậy thực tế, lúc xuất gia thì Di mẫu khoảng bao nhiêu tuổi?

 Theo Ký sự về các Trưởng lão Ni (Therī apadāna), Di mẫu tự thuật rằng, mình thọ một trăm hai mươi tuổi:

- Bạch đấng Đại Hiền Triết, con đây đã được một trăm hai mươi tuổi tính từ lúc sinh. Bạch đấng Anh Hùng, chừng ấy là vừa đủ. Bạch đấng Lãnh Đạo, con sẽ Niết-bàn[4].

Nếu căn cứ vào niên đại thành lập Ni đoàn, tức vào năm thứ năm sau khi Phật thành đạo[5], cộng với số tuổi của Di mẫu, điều đó đã tỏ xác tín rằng: Nếu cho rằng Đức Phật trải qua bốn mươi lăm năm giáo hóa, theo quan điểm Nam truyền, thì lúc xuất giaDi mẫu đã tám mươi tuổi; nếu cho rằng đức Phật trải qua bốn mươi chín năm giáo hóa theo quan điểm Bắc truyền, thì khi ấy Di mẫu đã bảy mươi sáu tuổi.

Trong thời Đức Phật, đã có nhiều cá nhân sống đến một trăm hai mươi tuổi được kinh điển ghi nhậngồm có các trường hợp như: Phạm chí Tu-bạt (須跋)[6], mẹ của vua Ba-tư-nặc[7], trưởng giảNa-câu-la (那拘羅)[8], ngọai đạo Thương Chủ (商主)[9]… Thế nên Di mẫu thọ đến mức đó cũng có cơ sở.

Từ những dữ liệu được nêu dẫn trên, có thể tóm tắt rằng:

Thứ nhất, Mahāpajāpatī Gotami được sinh ra và lớn lên trong cung của dòng họ Thích, đời sốngvà sinh hoạt mang phong cách hoàng gia.

Thứ hai, bà là một phụ nữ đảm đang, đã thành công trong việc nuôi dưỡng Thái tử Tất-đạt-đa, có khả năng lao động tay chân và có sức khỏe rất tốt.

Thứ ba, vào lúc xuất gia Di mẫu khoảng từ bảy mươi sáu cho đến tám mươi tuổi.

2. Thực tế tượng pháp của Di mẫu Mahāpajāpatī Gotami và những đề nghị ban đầu
Trong khoảng vài thập niên trở lại đây, do nhu cầu của chư Ni và sự thỉnh cầu của quần chúng Phật tử, một số cơ sở chuyên về tượng thờ như Zen Art, Thiên Phú Thạo, Tượng Phật Thanh Phong,  Tượng Phật Trần Gia… đã thiết kế tôn tượng tôn Ni Kiều-đàm-di. Ở đây, tùy theo quan điểm nghệ thuật của từng cơ sở, thậm chí kể cả quan điểm của chủ đầu tư mà đã có những tôn tượng của Di mẫu Kiều-đàm-di được thể hiện với nhiều phong cách khác nhau. Nếu như không có sự thuyết minh của người thực hiện thì khó có thể xác định đây là tôn tượngcủa Di mẫu Kiều-đàm-di vì không có bất kỳ một tiêu chí đặc thù nào dùng để xác định.

Trong khi đó, với tượng Phật Thích Ca thì khác, những đặc tướng riêng có như Nhục kế, tóc xoắn thành hình trôn ốc, phong cách Đại trượng phu(Mahapurisa)… dường như là những tiêu chí cố định để xác định đó là tượng Phật. Trong quá trình khai quật từ những di chỉ Phật giáo ở Mathura tại Ấn Độ hay Gandhara ở Pakistan, nhờ những đặc tướng riêng biệt này mà các nhà nghiên cứu mới có thể xác định được đâu là tượng Phật, đâu là tượng của các bậc Thánh.

Từ kinh nghiệm thực tiễn gần nhất là việc thể hiện tôn tượng Bồ-tát Thích Quảng Đức của UBND. Thành phố Hồ Chí Minh và Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2007. Từ cuộc thi sáng tác mẫu tượng đài Bồ-tát Thích Quảng ĐứcHội đồng Nghệ thuật TP.HCM đã chọn được mẫu tượng đài của điêu khắc gia Võ Công Thắng và đã thực hiện thành công tại Công viên Bồ-tát Thích Quảng Đức, ở địa chỉ 72-74 đường Cách Mạng Tháng Tám, quận 3. Tượng đài đã được khánh thành vào ngày 18.9.2010.

Từ kinh nghiệm này, nên chăng chư tôn đức Ni trong Phân ban Ni giới Trung ương kết hợp với Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Trường Đại học Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh và những nhà họa sĩ, điêu khắc có tâm huyết với Phật giáo, đứng ra tổ chức một cuộc thi về tôn tượng Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di (Mahāpajāpatī Gotami). Từ cơ sở đó, sẽ định hình nên những tiêu chí nghệ thuật đặc thù của tôn dung Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di (大愛道憍曇彌, Mahāpajāpatī Gotami).

 Mặt khác, ngay như tên gọi của Di mẫuthể hiện trong những văn bản hành chánh và biểu ngữ lễ hội liên quan đến Di mẫucần phải ghi đầy đủ và thống nhất là Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di (大愛道憍曇彌). Vì lẽ, nếu như chỉ ghi là Kiều-đàm-di (憍曇彌), tức chỉ mới đề cập đến họ của Di mẫu, vì trong thực tế có nhiều bậc tôn Ni trong dòng họ Thích cũng được ghi là Kiều-đàm-di (憍曇彌) như Xí-xá Kiều-đàm-di (翅舍憍曇彌)[10], Cát-ly-xá Cù-đàm-di (吉離舍瞿曇彌, Kisa Gotami Kisā-gotamī Kisā-gotamī Kisā-gotamī)[11], Sấu Cù-đàm-di (瘦瞿曇彌)[12]…

3. Kết luận


Tượng pháp, nhất là tượng pháp của những tôn giáo lớn là điều quan trọng, cao quý và thiêng liêngvà có tính thống nhất trong sự đa dạng. Đối với mỗi nghệ sĩ, tùy theo quan điểm nghệ thuật và năng lực của mình đã tạo nên những bức tượng tôn giáo với nét đẹp lay động lòng người. Tuy nhiên, trong sự đa dạng đó vẫn có những đặc điểm chung nhất, mang tính biểu trưng, tùy thuộc vào từng thể loại tượng pháp. Các bộ tượng pháp về Đức Phật Thích CaĐức Phật Di Đà, Bồ-tát Quán Thế ÂmTổ sư Đạt-ma… dù thể hiện trên nhiều chất liệu nhưng vẫn tuân thủ theo những quy cách vốn có để giới Phật giáo nói chung dễ dàng nhận diện.

Do vậy, đối với tôn tượng Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di (大愛道憍曇彌), nếu như có sự quan tâm đúng mức ngay từ bây giờ của chư tôn đức hữu quan, tất sẽ tạo nên một mô thức có tính chuẩn mực về tượng pháp, không những cống hiến cho Ni giới Phật Việt Nam nói chung mà còn cho toàn thể Ni chúng trên toàn thể giới.



[1] Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam, tập 9, Kinh Tiểu bộ, tập 5, Thánh nhân ký sự, Indacanda, dịch. NXB.Hồng Đức, 2021,  tr.555.

[2] Nguyên tác: Cù-đàm-di kinh 瞿曇彌經 (T.01. 0026.180. 0721c25-0722a04). Nguyên tác: 爾時,摩訶簸邏闍鉢提瞿曇彌持新金縷黃色衣往詣佛所,稽首佛足,却住一面,白曰:世尊!此新金縷黃色衣我自為世尊作,慈愍我故,願垂納受. 世尊告曰: 瞿曇彌! 持此衣施比丘眾,施比丘眾已,便供養我,亦供養眾.大生主瞿曇彌至再三白曰:世尊!此新金縷黃色衣我自為世尊作,慈愍我故,願垂納受.世尊亦至再三告曰:瞿曇彌!持此衣施比丘眾,施比丘眾已,便供養我,亦供養眾.  Tham chiếuPhân biệtbố thí kinh 分別布施經 (T.01. 0084. 903b23); M.142, Dakkhiṇāvibhaṅga Sutta (Kinh Phân biệt cúng dường).

[3] Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam, tập 11, Hợp phần và Tập yếu, Indacanda dịch, NXB.Tổng Hợp TP.HCM. 2022, tr.903.

[4] Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam, tập 9, Kinh Tiểu bộ, tập 5, Thánh nhân ký sự, Indacanda, dịch. NXB.Hồng Đức, 2021, tr.553. Nguyên tác Pāli: 319. “Sā vīsaṃvassasatikājātiyāhaṃ mahāmune, alamettāvatā vīra nibbāyissāmi nāyaka.”

[5] Theo, Nārada, Mahā Thera, Đức Phật và Phật pháp, Phạm Kim Khánh dịch, NXB.Tổng Hợp TP. HCM, 2019, tr.128.

[6] Du hành kinh 遊行經 (T.01. 0001.2. 0025a01).

[7] Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt nam, tập 3, Kinh Tương ưng bộ, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Hồng Đức, 2020, tr.116.

[8] Tạp. 雜 (T.02. 0099.107. 033a06).

[9] Tạp. 雜 (T.02. 0099.978. 0253a26).

[10] Biệt Tạp, 別雜 (T.02. 0100. 216. 0454a18).

[11] Tạp, 雜 (T.02. 0099. 276).

[12] Đại bát niết-bàn kinh大般涅槃經 (T.12. 0375.24. 0764b12).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2395)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3076)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2750)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 2066)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 3085)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2703)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3608)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3426)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4250)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3778)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4315)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2389)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3556)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4260)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 4040)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2945)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3449)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3571)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4657)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3974)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4846)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 4123)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 3097)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3842)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3997)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 3195)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3692)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4533)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3800)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2348)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2701)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 3119)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2813)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4687)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 5018)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2925)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5510)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2933)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3383)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4462)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 5047)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4803)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3348)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4638)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4357)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6256)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3578)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 4133)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 6107)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5498)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 4163)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 33667)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3259)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4239)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4806)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 3205)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3887)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3639)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6680)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2851)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant